Thứ Hai, 25 tháng 3, 2013

Tản mạn về Trịnh Công Sơn





1_ Lặng lẽ nơi này
Trịnh Công Sơn người nhạc sĩ của hơn hai thế hệ người Việt vừa tạ thế tại Sài Gòn hưởng thọ 62 tuổi, một người rất gần gũi mà cũng rất xa chúng ta. Ông là người mà ai cũng biết nhưng cũng không ai biết ông bao nhiêu ngoài gia đình và một vài người bạn rất thân.
Sinh ngày 28 tháng Hai năm 1939, qua đời ngày 1 tháng Tư, năm 2001 tại Sài Gòn. Trịnh Công Sơn quê ở Huế nhưng ra đời ở Đắc Lắc. Tiểu sử, ông chỉ ghi như thế.
Lặng lẽ nơi này, như tựa của một bài hát ông viết, có lẽ là một tóm gọn khá đúng về cách sống của ông:
Trời cao đất rộng, một mình tôi đi
Đời như vô tận, một mình tôi về
một mình tôi về với tôi...
Từ căn nhà cũ ở Phú Cam, Huế, Trịnh Công Sơn lớn lên, bỏ vào Sài Gòn, theo bạn bè, âm nhạc. ông không ồn ào những bước đưa nhạc của mình vào với người nghe.
Năm 1965, ở trụ sở sinh viên đại học góc đường Duy Tân Hồng Thập Tự, người thanh niên có cái vẻ rất thư sinh, gầy gò ấy cầm chiếc Tây Ban Cầm bước lên bục, sau đôi lời giới thiệu rất ngắn và giản dị của một người trong ban tổ chức, cất lên tiếng hát chưa mấy ai biết ở Sài Gòn thời ấy, và từ đó, nhạc Việt Nam không bao giờ còn như cũ nữa.
Trong số những ca khúc ông hát hôm ấy, có bài Gọi Tên Bốn Mùa. Sài Gòn hôm ấy vừa xong một cơn mưa. Cơn mưa vào hạ, những giọt thì thầm, cành khô bơ vơ, buổi chiều xao xác, tuổi thơ, tin buồn... Không khí ấy, cứ nghe lại vài ba đoạn trong ca khúc Gọi Tên Bốn Mùa, lại trở về, như mùa thu cũ, một thời, một đời...
Trịnh Công Sơn tới với người thưởng ngoạn bằng nhạc, nhưng căn bản, ông là một thi sĩ. Ông như người nhạc sĩ mù trong một bức vẽ của Picasso, thời kỳ xanh. Người nhạc sĩ cầm cây đàn, cây đàn không có dây, dạo lên những âm thanh mà chỉ ông nghe thấy, vì nó đi ra thẳng từ quả tim của ông.
Trịnh Công Sơn cũng thế. ông viết rất dễ dàng. Trong trí, trên một mảnh giấy lau tay trong một tiệm nước, bất cứ chỗ nào. Như một thi sĩ, vì ông chính là một thi sĩ. Có những bản nhạc của ông, phần lời ca đúng là những bài thơ. ông dùng nhạc để nâng đỡ những đoạn thơ đó. Và ông cũng dùng thơ để dẫn những đoạn nhạc đi. Nhạc của ông không khúc mắc là vì thế. Ngôn ngữ thơ trong phần lời ca của ông đưa người nghe vào một thế giới với những hình ảnh hoàn toàn mới. Hình ảnh lãng mạn mà ông tạo ra không còn dấu tích của dòng nhạc bước đi từ thời tiền chiến. Nó đưa tới sự chấm dứt những ảnh hưởng cũ đã ở trong nhạc Việt từ hơn ba mươi năm. Đến Trịnh Công Sơn, nhạc Việt mới đi hẳn về một chiều mới. Ngôn ngữ tình yêu của ông không là những ngôn ngữ của thi ca lãng mạn Việt Nam trước đó. Đó là một thứ ngôn ngữ để nói về tình yêu trong một nỗi bất an, một không gian bất ổn, của chung quanh đầy xao động.
Có thể nói Trịnh Công Sơn làm thơ bằng âm nhạc. Âm nhạc chỉ là một phương tiện để chuyên chở thơ của ông. Trong những chuỗi âm thanh mà nhạc dẫn dắt chúng ta đi theo ông, người nghe, vẫn thấy lấp ló đâu đó con người thi sĩ của ông. Chữ nghĩa thi ca của ông không cầu kỳ, cũng không khuôn sáo. Những chữ đã rất cũ, qua tay ông, được mặc cho những bộ áo mới. Thì đây, chữ nghĩa đã cũ, nhưng nghe qua Trịnh Công Sơn thì lại rất mới:
Tôi ru em ngủ
Một sớm mùa đông
Em ra ngoài ruộng đồng
Hỏi thăm cành lúa mới
Tôi ru em ngủ
Một sớm mùa thu
Em đi trong sương mù
Gọi cây lá vào mùa...

Trịnh Công Sơn là một tài hoa hết sức đa dạng. Ông viết về nhiều thứ nhạc khác nhau. Từ những tình ca xót xa, nghe tê dại, đau đớn, những tình khúc bất hạnh đến những bài ngợi ca quê hương đất nước, một ước mơ hòa bình hiền lành của dân tộc. ông nói hộ cho một hai thế hệ những điều đó. Nhưng nhạc tình của ông, bằng những hình ảnh rất mới, của thơ, đã trở thành dấu ấn của Trịnh Công Sơn.
Ông quan niệm như thế này về nhạc tình: "Khi bạn hát một bản tình ca là bạn đang muốn hát về cuộc tình của mình. Hãy hát đi, đừng e ngại, dù hạnh phúc hay dở dang thì cuộc tình ấy cũng là một phần máu thịt của bạn rồi."  Và bởi thế, những tình khúc mà ông viết, đã trở thành những tình ca chung của tất cả. Tính chất riêng tư không còn nữa.
Diễm trở thành không thực. Chỉ còn nhớ mãi trong cơn đau vùi, buổi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa qua như trong ca khúc Diễm Xưa, nghe một lần rồi mãi mãi không bao giờ quên được.
Trịnh Công Sơn ra đi là một mất mát vô cùng lớn của những người yêu nhạc Việt. ông để lại một thế giới đẹp hơn. Và nói như Kiều Chinh sáng hôm nghe tin ông mất, được sống cùng thời với Trịnh Công Sơn, là một vinh hạnh.



2_ Trịnh Công Sơn, nhạc tình
Ở trang 11 của tuyển tập Những Bài Ca Không Năm Tháng, Trịnh Công Sơn viết về hai nỗi ám ảnh trong đời ông như thế này: Sống giữa đời này chỉ có thân phận và tình yêu. Thân phận thì hữu hạn. Tình yêu thì vô cùng. Chúng ta làm cách nào nuôi dưỡng tình yêu để tình yêu có thể cứu chuộc thân phận trên cây thập giá Đời. Ông viết những dòng trên có thể trong cuối thập niên 90, khi 127 ca khúc được thu thập in lại thành tuyển tập. Nhưng nhìn lại những nhạc phẩm mà người ta được nghe của ông, thì tình yêu là ám ảnh lớn hơn tất cả các đề tài khác của Trịnh Công Sơn.
Có thể khẳng định rằng nếu sống vào một thời điểm khác, hòa bình hơn, hạnh phúc hơn, Trịnh Công Sơn đã chỉ viết một loại ca khúc: nhạc tình. Nhưng chiến tranh bầy ra cho ông một bất hạnh lớn. Bất hạnh đó kéo ông về những đau đớn triền miên của dân tộc. Những đau đớn bất hạnh đó không cho ông được phép thản nhiên để ca ngợi tình yêu, và vì thế mà trong tình ca của ông, vẫn thấy bóng dáng của khổ đau, bất hạnh. Trong bài Tình Sầu, với ông, tình yêu, ngay cả những lúc dịu dàng nhất, cũng vẫn như những khổ đau của trái phá, con tim mù lòa, vết cháy trên da thịt, cơn bão qua địa cầu... Trịnh Công Sơn cứ bị kéo trở lại với những bất hạnh như thế, nên những tình ca ông viết cũng không là những bài ngợi ca hạnh phúc. Nó là những bất hạnh của chia xa, của những thương tích khổ đau, tuyệt vọng. Chính Trịnh Công Sơn cũng nói rõ điều ấy : "Mỗi bài hát của tôi là một lời tỏ tình với cuộc sống, một lời nhắn nhủ thầm kín về những nỗi niềm tuyệt vọng, và cũng là một nỗi lòng tiếc nuối khôn nguôi đối với buổi chia lìa (một ngày nào đó) cùng mặt đất mà tôi đã một thời chia xẻ những buồn vui cùng mọi người."  Nên ông mong có được tin vui từ gạch đá dẫu mai nơi này người có xa người, hãy hát tình ca, hãy yêu nhau dẫu đang chênh vênh bên bờ của nguy khốn, hạnh phúc và thương đau cứ hãy trao cho nhau...
Trịnh Công Sơn, thủy chung vẫn chỉ ở với nhạc tình. Bài ca đầu tiên và cuối cùng của ông đều là những tình ca. Trong một chiều dài một nửa thế kỷ sáng tác, từ những năm 1950 đến cuối thập niên 90, Trịnh Công Sơn viết nhiều nhất vẫn là nhạc tình. Bản tình ca đầu tiên không phải là bài Ướt Mi như nhiều người vẫn nghĩ. ông cho biết ca khúc viết cho tình yêu đầu tiên của ông là bài Sương Đêm mà nay ông chỉ còn nhớ được cái tựa. Không một ai biết bài hát này. ông cho biết nó đã thất lạc với những biển dâu trùng trùng của đời sống. Ướt Mi lần đầu tiên được hát trước công chúng là tại phòng trà Văn Cảnh bởi tiếng hát của Thanh Thúy. Ca khúc này biến Trịnh Công Sơn thành một tên tuổi nổi tiếng lập tức.
Tình khúc Ướt Mi là khởi đầu cho chuyến đi rất dài, trên đó, ông để lại cho người thưởng ngoạn nhiều tình ca khác. Nhưng Ướt Mi, tuy thế, không phải là ca khúc viết về tình yêu hay nhất của ông. Nó vẫn còn những nét sơ phác cả về nhạc lẫn lời ca. Phải đợi đến Diễm Xưa, và Nắng Thủy Tinh, mức độ trưởng thành về nhạc và sự chín tới của lời ca mới thấy rõ nơi nhạc Trịnh Công Sơn.
Mầu nắng và mầu mắt, chiếc bóng nghiêng, bàn tay xôn xao, gió mây ngàn, hàng cây thắp nến... với Nắng Thủy Tinh, tình ca Việt Nam đi sang một hướng mới. Ngôn ngữ dùng làm lời ca là ngôn ngữ của thi ca, mới từ âm thanh đến ý nghĩa. Trước và sau Trịnh Công Sơn không ai viết thứ lời ca như thế...
Trong chiều dài sáng tác của Trịnh Công Sơn, ông cứ tiếp tục làm mới ông mãi mãi. So với Nắng Thủy Tinh, thì Như Cánh Vạc Bay lại hoàn toàn đi sang một lối khác. Cái đau đớn, chết chóc không còn nữa, nhưng niềm tuyệt vọng thì còn nguyên. Câu cuối của bài hát này, cứ như những vòng sóng trên mặt hồ, chạm vào bờ, rồi lại chạy ra giữa hồ hoài hoài mãi mãi. Những sợi tóc từ đó mãi mãi là nhăc nhở về mặt hồ sóng. Nắng thì hờn ghen, mưa thì làm buồn đôi mắt. Đặc tính thơ hiện ra rất rõ trong Như Cánh Vạc Bay, làm khía cạnh thơ lấn hẳn phần nhạc.
Quỳnh Hương mà ông viết trong thập niên 70 lại đưa nhạc của ông đi xa khỏi cái bờ bến đầu tiên của Ướt Mi thêm một đoạn đường dài khác. ông nhẹ nhàng như những bước nhún nhẩy của nhịp 2/4 như một lời tỏ tình hân hoan... Bông hoa quỳnh ông đem tặng người yêu dấu cũng là món quà người nhạc sĩ viết tình ca để lại cho chúng ta, cho đời sống, đời sống rất đẹp mà ông chỉ cho chúng ta tìm lại được trong thế giới nắng hạn đã có lúc bốc cháy tan nát này.

 
3_ Phản chiến ?
Trịnh Công Sơn mới bước vào tuổi biết nghĩ, là lúc chiến tranh cũng đang sửa soạn đi vào giai đoạn khốc liệt nhất. Trong những cái ốc đảo nhỏ của những thành phố ông đã ở đó, âm thanh của cuộc chiến vẫn vọng về, tiếng nổ của đại bác đã thay cho tiếng ru hằng đêm, những đứa bé côi cút lõa lồ, những người già trong công viên, đàn bò ngu ngơ... nhắc nhở cho ông không khí đầy súng đạn, chết chóc chung quanh. Chỉ là gỗ, là đá mới không cảm thấy được những khổ đau, bất hạnh của đất nước, của dân tộc. Mà làm sao người ta có thể biết chắc được rằng gỗ, rằng đá không đau? Bia đá cũng còn biết đau như ông đã viết trong một ca khúc. Đá còn vậy huống chi con người trước những tang tóc, đau thương của đồng loại.
Từ một người chỉ muốn được một đời viết và hát nhạc tình, ngợi ca tình yêu, thì cuộc chém giết hàng ngày chung quanh ông đã bắt ông phải nói lên những khát vọng hòa bình, của chúng ta, của cả dân tộc Việt. Không phải chỉ bên này, hay chỉ bên kia mới được quyền nói, kêu gọi, đòi hỏi hòa bình, mà chính bạn, tôi, chúng ta, như trong ca khúc nhan đề Chính Chúng Ta Phải Nói, ca khúc một thời trên môi tuổi trẻ Việt Nam ở các sân trường học.
Năm 1968, khi chiến tranh ở giai đoạn khốc liệt nhất, thì đó cũng là năm nhạc của Trịnh Công Sơn đi sang một hướng đi khác. Vẫn viết tiếp những ca khúc lãng mạn ngợi ca những mối tình đến rồi lại đi, nhưng ngay trong các tình khúc ấy, tiếng đạn bom, trái phá, cũng đã trùng khắp, con phố xưa đầy dấu đạn, tên em cũng là vết thương khô. Trịnh Công Sơn bắt đầu viết những ca khúc được nhiều người gọi là nhạc phản chiến. Không một người có trái tim mà không biết nhỏ lệ, mà không biết khóc cho cả một dân tộc, cho anh, cũng như cho em đang quằn quại trong niềm thù hận mà ông gọi là "giả tạo" đó. Trịnh Công Sơn viết về giọt nước mắt của người mẹ thương đứa con, thương sông, thương rừng, thương đất, thương mây, thương chim, thương đêm, giọt nước mắt không tên, bài hát cảm động nghe muốn khóc. Nguyễn Đình Toàn, một lần, khi giới thiệu giọng hát Khánh Ly, đã gọi đó là giọng hát đi rao giảng những bất hạnh của dân tộc, giọng hát để tang cho đất nước. Khánh Ly chỉ là người đem những điều Trịnh Công Sơn viết xuống và chuyển đúng được những điều ông gửi gấm.
Tập nhạc ông đặt tên là Kinh Việt Nam, xuất bản năm 1968, theo chính lời ông viết ở trang đầu, là tiếng kêu thương thống thiết, khởi từ một thực trạng máu xương, là lòng mơ ước về một rạng đông cho đêm tối dài lâu này. Đó là những bài hát được viết từ những hân hoan lắng nghe được trong lòng người, là nỗi hân hoan của đám đông chờ mong ngày hồi sinh. Nếu đó là nhạc phản chiến, thì tất cả chúng ta đều có đầy đủ lý do và chính nghĩa để chống lại chiến tranh. Phản chiến, như thế, không là một taboo, một cấm kỵ nữa, mà là một ước ao tốt đẹp nhất của con người. Trịnh Công Sơn chống lại chiến tranh, giết chóc một cách hiền lành. ông không đòi xương máu, ông không đòi trả thù, ông không đòi tiêu diệt bên này, chôn sống bên kia. ông bất lực không làm gì được để chặn những viên đạn bay, để nâng dậy hòa bình khốn khổ cho dân tộc đầy đọa triền miên bao nhiêu năm. Ước mơ tội nghiệp đó nghe được trong tất cả những ca khúc phản chiến của ông. Trịnh Công Sơn, trong thế đứng khó khăn, thế đứng dựa vào nhân bản và dân tộc đó, ông đã giữ được cho đến lúc qua đời mặc dù trong đời sống, đã có lúc ông bị buộc phải đi trên sợi dây cheo leo, dưới chân là bờ vực hiểm nghèo. Nhưng lòng yêu quê hương, lòng thương người của ông, những giọt nước mắt cho người mẹ ngồi chờ, cho người lính ngồi chờ trên đồi, cho chúng ta, là những điều sẽ còn mãi trong lòng cả một xứ sở, một dân tộc trong nhiều năm nữa, chừng nào còn có người hát nhạc Việt.



4_ Trịnh Công Sơn và tôn giáo
Nhạc tôn giáo ít khi tiến được ra ngoài những bức tường của thánh đường hay sân chùa để được trình tấu và thưởng thức cùng với các loại nhạc phổ thông và thời trang khác. Lý do là vì cấu trúc của loại nhạc này quá cổ điển, và ngôn ngữ quá tôn nghiêm. Tính chất tôn nghiêm đó khiến cho khó có thể nói về tình yêu, thứ tình cảm thuần khiết và giản dị nhất của con người. Vì thế, nhạc tôn giáo vẫn tiếp tục ở mãi trong những bức tường thâm nghiêm của giáo đường và chùa chiền. Đầu thập niên 60, The Singing Nun, một nữ tu người Bỉ cũng có biệt hiệu khác là Soeur Sourire, với cây Tây Ban cầm, đã rất thành công trong thế giới nhạc Pop với hai bài Entre Les étoiles và Dominique, hai bài hát mang rất nhiều hình ảnh tôn giáo, nhưng lại được những người trẻ tuổi nghe nhạc Pop ưa thích ngay. Hai nhạc phẩm lời ca viết bằng tiếng Pháp cũng được ưa chuộng ở các nước nói tiếng Anh. Những rào cản cũ bị dẹp bỏ. Cùng lúc, Trịnh Công Sơn cũng đem dùng một số những từ ngữ mà trước đó được giữ trong một nơi chốn khác hơn là ngôn ngữ âm nhạc thời trang. Những chữ phúc âm, lời buồn thánh... dẫu chuỗi hình ảnh đi kèm vẫn là của tình yêu lãng mạn, nhưng đó là lần đầu tiên những loại từ ngữ này được dùng trong những bản nhạc không mang không khí của giáo đường. Trịnh Công Sơn đem thứ ngôn từ đó ra ngoài, biến chúng trở thành thân quen, tình tứ. Chiều chủ nhật, thiên thần, ăn năn... những từ ngữ vang vọng tiếng chuông, tiếng phong cầm ấy được nối tiếp sau đó không bao lâu bằng nhạc phẩm mang tựa đề Phúc Âm Buồn, cũng lại là một thứ từ ngữ nghe là thấy không khí của tôn giáo. Nhưng Trịnh Công Sơn chỉ dùng những từ ngữ đó như một cái cớ để dàn trải những tình cảm lãng mạn của ông. Không khí mà chữ nghĩa lấy từ trong tân ước được lồng vào hai bản tình ca của Trịnh Công Sơn. ông biến những chữ trước đó luôn luôn gây những ấn tượng trang nghiêm lạnh buốt thành những ngôn từ gần gũi hơn, thân mật hơn. Đã có lúc người ta tưởng đạo Cơ Đốc là tôn giáo của ông.
Trong một cuộc phỏng vấn mới đây, Trịnh Công Sơn cho biết đạo Phật đã ảnh hưởng sâu đậm trên tình cảm thời thơ ấu của ông. Nhưng lớn lên, càng lớn, và càng nhìn ra những khổ hạnh trong đời sống, những bất công, những đau đớn cuộc chiến mang lại, Trịnh Công Sơn càng thấy ra những lời gọi của tôn giáo. ông tìm được an ủi, trong tuyệt vọng, ông tìm được vỗ về trong hạnh phúc mong manh, phù du. Bài Đóa Hoa Vô Thường, một ca khúc đẫm hương thiền lại là một ca khúc hạnh phúc nhất của ông. Trong đó, sự cứu rỗi đón lấy ông giữa những trang kinh thơm mùi sen cao quí. Đời sống phù du bỗng bình an vô thường. Trịnh Công Sơn dùng hình ảnh từ những trang kinh ra để nói về tình yêu. Nhưng rồi ông cũng lại dùng những lời ca tầm thường nhất để tạo một không gian đầy tôn giáo. Bài Nguyệt Ca là một ca khúc như thế. Điều đó cho thấy lúc nào ông cũng luôn thủy chung là một nhạc sĩ viết tình ca, loại nhạc sẽ ở mãi với con người cho dẫu thời gian, không gian có đổi thay.



 
5_ Những ru khúc
Trịnh Công Sơn, năm 1995, khi thân mẫu qua đời, đã viết đầy kín một trang giấy những suy nghĩ của ông về cái ngày đau buồn đó. Với ông, chuyện mất mẹ là một chuyện không thể thỏa hiệp, không thể dàn xếp được, dẫu cho người con có bao nhiêu tuổi đi chăng nữa. ông sống rất lâu với mẹ, từ khi mất cha. ông bị ảnh hưởng rất nhiều nơi mẹ. Thế nên sự ra đi của người mẹ, mới là điều không thể thỏa hiệp được với ông như ông nói ở trên. Chính những bài hát ông nghe được của mẹ đã tiếp tục theo ông mãi trên những đoạn đường dài nhất. Những bài hát mẹ hát để ru những người em đã trở thành những hạt mầm mọc lên những ca khúc ông viết sau này. Trong bài Tình Yêu Tìm Thấy, người ta nghe được câu này về những bài hát ru ấy: Tiếng ru mẹ hát những năm xưa, mãi là lời ca dao bốn mùa, tìm thấy nỗi nhớ từ mỗi chiếc lá, góc phố nào cũng thấy quê nhà... Ông rời nhà đi học ở một thành phố lạ, hình ảnh mang theo của bà mẹ là những bài hát ru. Và ông nhắc đến những bài hát ru ấy rất nhiều trong các ca khúc của ông.
Những bài hát ru của Việt Nam là những vỗ về, là những dỗ dành, là những an ủi, là những vuốt ve đầu tiên của những đứa bé. Vòng tay thơm, giọng hát ấm áp của người mẹ đem lại cảm giác an toàn cuối cùng cho người ta trước khi bị đẩy ra thế giới có khi rất hung bạo ở ngoài cửa. Trịnh Công Sơn tìm thấy trong những bài hát ru ấy một chỗ trú ẩn rất bình yên. Đời sống của người thanh niên trẻ lần đầu tiên sống xa những bức tường an toàn của ngôi nhà cũ ở Huế khiến ông cứ tìm cách để trở về với nó mãi. Và đó là lý do Trịnh Công Sơn viết rất nhiều ru khúc trong chu trình sáng tác của ông. ông viết để trở về với đoạn đời hạnh phúc, an toàn ấy trong khi đi qua những con đường đầy những gập ghềnh của thế giới ông vừa tiến vào. Ru Ta Ngậm Ngùi là những an ủi, vuốt ve cho chính mình trong niềm cô đơn tội nghiệp. ông muốn được trở lại ngủ trong vòng nôi, trong tiếng ru ấy. Những bài hát ru đem lại cho người nghe cảm giác an toàn hạnh phúc. Và cuộc đời càng đưa tới những bão táp nghiệt ngã, thì người ta càng muốn tìm trở lại nơi trú ẩn cũ. Những bài hát ru của thời thơ ấu cho ông nơi trú ẩn đó. Chiến tranh càng khốc liệt, thì ngừơi ta càng cần đến nhiều hơn những nơi trú ẩn, những nơi trú ẩn an toàn nhất của thời thơ ấu, đó là những bài hát ru trong lòng người mẹ. Trịnh Công Sơn nhìn thấy,một cách kinh hoàng khi những tiếng đại bác thay thế cho tiếng ru hàng đêm: đại bác ru đêm vọng về thành phố, người phu quét đường dừng chổi đứng nghe. Ông thấy phải thay những tiếng nổ đó bằng những ru khúc. Những bài hát để ru những anh và những em, những người già, và những em bé, ru đất nước và dân tộc, ru cho những đau thương, những bất hạnh ngủ yên. Trịnh Công Sơn, trong khi đi tìm sự bình yên cho ông bằng những ru khúc ông viết, thì cũng đem lại những an ủi, vỗ về cho nguyên một thế hệ của ông. Có thể nói không một nhạc sĩ nào viết nhiều ru khúc như Trịnh Công Sơn. ít ra cũng phải trên hai chục bài. ông ngậm ngùi ru chính ông. ông ru tình, ông ru đời. ông ru đời đã mất. ông ru người yêu ngủ trong buổi sớm mùa đông, rồi lại một sớm mùa xuân. ông ru mãi, ru hoài. ông ru những tháng âm u, ru những chia xa, những phụ rẫy, ngọt bùi. Những lời tỏ tình cũng được lồng vào một điệu ru như trong ca khúc Ru Em Từng Ngón Xuân Nồng. Còn một cách tỏ tình nào hơn bài hát ru đó?


 

6_ Thân phận con người
Tuyển tập Những Bài Ca Không Năm Tháng xuất bản cuối năm 1998 là một tập nhạc đồ sộ ở con số bản nhạc được chọn để in. Đó là lần đầu tiên một tập nhạc có con số ca khúc lớn như thế của Trịnh Công Sơn: 127 bản. Nhưng đó không phải là tất cả những bản nhạc ông đã viết, đã cho phổ biến và đã được hát lên, được nghe trong cuộc đời sáng tác của ông. Thông thường thì tác giả nào chẳng muốn in toàn bộ sáng tác của mình, hay ít ra, thì cũng là tất cả những tác phẩm ưng ý nhất, vào một tập. Trịnh Công Sơn cho biết, trong cuộc đời sáng tác của ông, đã viết trên 500 nhạc phẩm, con số mà những người biết ông đều nghĩ là một con số quá khiêm tốn. Nhưng trong số ấy, ông cũng chỉ chọn 127 bài để in trong tập nhạc này. Tuy được sắp xếp theo thứ tự của tự mẫu La Tinh, nhưng tình cờ, ca khúc đầu tiên lại là Bên Đời Hiu Quạnh và bản nhạc cuối của tập nhạc là bản Yêu Dấu Tan Theo, và chính tựa của hai ca khúc in ở đầu và cuối tập nhạc cho thấy những suy nghĩ cuối đời của ông về tác phẩm ông muốn để lại. Những bản nhạc trong tuyển tập đều không ghi ngày viết và không được xếp theo thứ tự tháng năm sáng tác. Mở tập Những Bài Ca Không Năm Tháng, người ta thấy ngay một điều: đó là sự thiếu vắng của những ca khúc vẫn thường được gắn liền với tên tuổi của ông. Những bản tin của báo chí hay các hãng thông tấn ngoại quốc như The New York Times, The Washington Post, Reuters, AFP, AP... đều nhắc đến ông như một nhạc sĩ phản chiến. Nhưng trong tập nhạc cuối cùng này, người đọc không thấy có bất cứ một bản nhạc gọi là nhạc phản chiến nào. Những ca khúc như Chờ Nhìn Quê Hương Sáng Chói, Ngày Mai Đây Bình Yên, Ta Đã Thấy Gì Trong Đêm Nay, Sao Mắt Mẹ Chưa Vui, Nước Mắt Cho Quê Hương, Ca Dao Mẹ, Người Già Em Bé, Du Mục... đều không có mặt. Mà những ca khúc đó, đều là những bài hát không thể không có trong những sinh hoạt của tuổi trẻ Việt Nam trong những năm 60 và 70, những bài hát đóng góp lớn trong việc làm thành tên tuổi ông. Và luôn cả bài Nối Vòng Tay Lớn, bài hát từ nhiều năm nay luôn luôn đi liền với tên ông. Bài hát được hát lên rất nhiều như ước vọng nối lại sơn hà, nối thành phố với nông thôn, nối người chết linh thiêng vào đời, nối Bắc với Nam nối biển xanh với sông gấm, nối rừng núi với biển xa... Và chính tựa đề của bài hát này, Nối Vòng Tay Lớn, đã được dùng để đặt tên cho chương trình đưa các sinh viên du học về nước thăm nhà hồi trước năm 1975, rồi cũng chính bài hát này, sau khi được hát lên trên làn sóng điện đài phát thanh Sài Gòn trong ngày đầu tiên khi Cộng sản tiến vào Sài Gòn, đã tạo ra không biết bao nhiêu ngộ nhận cho ông cho đến bây giờ vì rất ít người biết rõ hoàn cảnh đưa tới việc có tiếng hát của ông trong ngày hôm đó. Trịnh Công Sơn không đưa những bài hát này vào tập Những Bài Ca Không Năm Tháng. Trong một câu ông viết ở đầu tập nhạc, ông khẳng định: Sống giữa đời này chỉ có thân phận và tình yêu. Và những bài ca ông cho in trong tuyển tập chỉ còn là những bài hát về tình yêu và thân phận.
Trịnh Công Sơn viết những ca khúc về thân phận hết sức buồn bã. Ngay cả trong những bài hát ông viết về tình yêu, ông cũng bầy ra một nỗi buồn chán, tuyệt vọng. Trong suốt những năm trưởng thành của ông, những gì xẩy ra trên quê hương mà ông chứng kiến, chỉ là những điều buồn phiền như ông đã kể: "Trên quê hương còn lại, ta đi qua nửa đời chưa thấy được ngày vui..." (Những Đôi Mắt Trần Gian). Những bạn bè rời xa, những cuộc tình bỏ đi, ngày qua đi mỗi ngày một xót xa... "ở cuối chân trời Việt Nam, những tia nắng nghèo nàn và bệnh hoạn từ một mặt trời hết sinh khí sắp đi vào hôn mê." Ông đã viết như thế năm 1968 ở đầu tập nhạc Kinh Việt Nam. Trịnh Công Sơn đã sống những ngày vô cùng tuyệt vọng như thế, như trong ca khúc Như Chim Ưu Phiền mà nhịp đi buồn bã của thơ năm chữ còn rất rõ trong bản nhạc:
Tôi như con chim nhỏ
Bay về rất ngẩn ngơ
Trên nhân gian chia lìa
Lòng đầy những oán thù
Tôi như chim xa lạ
Đứng nhìn những ngày qua
Trong tim tôi bất ngờ
Một lời than rất nhỏ
Tôi như con chim buồn
Bay về lúc chiều hôm
Thôi quên đi thiên đường
Một đời tôi mãi tìm
Tôi như con chim bệnh
Thiếu hạnh phúc trần gian
Có những tháng mùa đông
Ngồi khóc rất âm thầm
Tôi như chim ưu phiền
Bay về cuối dòng sông
Con sông mang tin buồn
Nằm chờ những đóa hồng
Tôi như chim vô vọng
Linh hồn rất mong manh
Trong tim tôi có lần
Một mùa ôi rất lạnh...
Trịnh Công Sơn lớn lên, nhìn chung quanh chỉ thấy những tin buồn, những tin buồn như ông có lần viết là đã mang "từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người" trong ca khúc Gọi Tên Bốn Mùa.  Nhưng thân phận ấy cũng không phải chỉ là của riêng ông, mà là của cả dân tộc và đất nước đau khổ ông đang sống với những lìa xa, chết chóc, vong thân, tù ngục, đầy đọa triền miên. Đứa bé ra đồng đạp trái mìn nổ chậm chết không toàn thây, bờ môi như vẫn còn thầm hỏi có thiên đường hay không... Trong đời sống như vậy, một phát ngôn nhân, một tiếng nói cất lên, thay mặt họ, về những bất hạnh của cuộc sống, những hoài nghi ngay cả về những bàn tay cứu rỗi của cả Phật lẫn Chúa như trong bài Này Em Có Nhớ. Thân phận buồn bã của tuổi trẻ trong cuộc chiến trở thành một ám ảnh không bao giờ rời Trịnh Công Sơn. ông khóc cho họ, đau cho họ, rồi lại quay về an ủi, vỗ về họ. Nhưng còn khúc hát nào buồn hơn trong vỗ về an ủi, bảo cho mọi người vui lên mà đau đớn như bài Hãy Cứ Vui Như Mọi Ngày? " Dù ta như con đường dài vắng người... Hãy cứ vui chơi cuộc đời..."



 

7_ Tiếng réo gọi về với ca dao
Năm 1967, chiến tranh Việt Nam leo thang lên gần đến điểm cao nhất, số người chết ở cả hai phía đều lên đến những con số làm kinh động lương tri của nhân loại. Tất cả mọi giá trị, mọi truyền thống đều bị đem ra thử thách, để rồi bị gạt sang một bên. Thành thị, nông thôn bốc cháy trong lửa của chiến tranh nồi da xáo thịt khốc liệt. Một thế hệ lớn lên không có được một ngày thanh bình, những nét tốt đẹp nhất của dân tộc bị thay thế bằng thù hận, bom đạn, tuyên truyền xảo trá, chiêu bài giả dối. Quê hương chỉ còn là những đống gạch vụn tan nát không thể trở về. Một nền văn minh khác đang đe dọa tiến vào, xóa đi những truyền thống cũ. Thì đúng vào thời gian đó, bài Người Con Gái Việt Nam Da Vàng được hát lên lần đầu tiên ở một hội quán nhỏ ở Sài Gòn của sinh viên. Người nghe, cái thế hệ thiệt thòi và tội nghiệp đó, thế hệ không được biết hòa bình bỗng được chỉ cho thấy cái họ sắp đánh mất. Cuộc sống tốt đẹp cũ trong có một thời gian ngắn, đã trở thành quá xa lạ, như chỉ còn lại trong những trang giấy cũ của bộ Quốc Văn Giáo Khoa Thư. Trịnh Công Sơn có thể dùng một thể nhạc chậm hơn, không cần phải đầy nét hối hả để viết bài Người Con Gái Việt Nam Da Vàng, nhưng ông chọn một nhịp nhanh hơn để viết ca khúc này. Kết quả là bài ca mang nhiều hối thúc, giục giã hơn. Và có lẽ ít có một ca khúc nào tạo được nhiều xúc động như một câu trong bài, câu: "... Em chưa hát ca dao một lần, em chỉ có con tim căm hờn..."  Nguyên một thế hệ xa lạ hẳn với ca dao vì chiến tranh, bom đạn. Dòng nước ngọt với những lục bát vỗ về tình tứ, những an ủi, những tỏ tình, những lẳng lơ tuyệt đẹp thế hệ này không biết. Nhiều tiếng nói cất lên để báo động: dân tộc sắp đi tới một hành động phá sản tự sát văn hóa. Trịnh Công Sơn, bằng ca khúc Người Con Gái Việt Nam Da Vàng, đã lên tiếng nhắc thế hệ của ông, cái thế hệ đi trong đêm vang ầm tiếng súng, mang trong tim những căm hờn, yêu quê hương nay đã không còn, rằng họ chưa được hát ca dao một lần, họ cũng quên mất xưa kia Việt Nam không như Việt Nam mà họ đang phải sống từng ngày. Tiếng réo gọi của bài hát thật là khủng khiếp. ông kéo người nghe lại gần, rồi chỉ cho thấy quê hương khốn khổ ấy, nơi những địa danh, những tên thành phố chỉ còn là nhắc nhở về những cái chết, là nỗi bất hạnh, là những khổ đau của cả một dân tộc. Những hình ảnh quê hương đất nước thanh bình mà các nhạc sĩ lớp trước vừa vẽ ra được như trong các ca khúc của Nguyễn Văn Khánh, Phạm Đình Chương, Phạm Duy, Lam Phương, Văn Phụng... qua đến Trịnh Công Sơn thì không còn nữa. Những hình ảnh của một thời thanh bình ấy được thay bằng những cái chết không manh áo, ngoài đồng, trên sông, lòng đèo, ở Ba Gia, ở Chu Prong, ở Huế, Sài Gòn, Hà Nội... trong Tình Ca Của Người Mất Trí. Trịnh Công Sơn viết về đất nước như một hành động đòi lấy quyền để nói, để nhắc nhở cho thế hệ của ông, trước ông và sau ông về một quê hương Việt Nam đang bốc cháy, để báo động trận hỏa hoạn, để hét lên lời cầu cứu... "Hố thẳm đã mở ra dưới chân dân tộc này. Lương tâm con người đang trên đà bị phát mãi." ông viết ở đầu cuốn Kinh Việt Nam như thế. Ca khúc tiếp theo, Lại Gần Với Nhau là những lời gọi thảm thiết, gọi anh, gọi chị, gọi em, gọi mọi người ngồi lại, ngồi gần lại nhau. Trịnh Công Sơn nói với một người bạn rằng ông không thể sống ở ngoài Việt Nam, bất kể đó là một Việt Nam thế nào đi chăng nữa. ông ôm lấy quê hương tơi tả rách nát chờ một ngày đất nước đứng dậy, vực lại quá khứ huy hoàng cũ. Cũng ở tập nhạc in năm 1968, ông viết: "Xin đừng bao giờ làm kẻ phản bội một quá khư hiển linh."
Trịnh Công Sơn không viết về quê hương thanh bình: "Em không biết quê hương thanh bình, em chưa thấy xưa kia Việt Nam...",  ông viết về quê hương của những ngày sắp tới, khi ba thành phố nắm tay nhau, ba dòng sông góp thành hội trùng dương. Huế Sài Gòn Hà Nội nói lên ước mơ của những trái tim đau sắp kiệt lực, những chờ đợi cho những con đường nở hoa, cho lá trầu, miếng cau cổ tích trùng phùng. Ước mong đó không thể là của một người, mà của cả một dân tộc bị đầy đọa khốn cùng. Trịnh Công Sơn đã nói lên tất cả những điều đó cho những người anh em của ông, chúng ta.




8_ Nỗi cô đơn giữa đám đông
Trịnh Công Sơn trong suốt nhiều năm, lúc nào cũng có đông bạn bè ở chung quanh nhưng ông lại là người hết sức cô đơn ở giữa đám đông ấy. ông cứ loay hoay với những mệt mỏi của cuộc chiến tranh mãi không tìm ra được lối thoát, trong khi những tiếng động của cuộc chiến vẫn vọng về cắt ngang những đời sống, những tương lai, những cuộc tình, những bạn bè, tuổi trẻ của thế hệ cùng thời với ông. Càng nghĩ tới những chuyện đó, ông càng thấy rất nhiều suy nghĩ của ông không được chia xẻ. Nhịp quay của đời sống cuốn theo, nuốt trôi mọi thứ. ông vừa thấy bất lực trước chung quanh nghiệt ngã, vừa cảm thấy lúc nào ông cũng một mình. Chỉ những khi bóng tối che ngang, lúc có những tiếng gọi thì thầm của trăm năm, như đoạn mở đầu của bài Còn Có Bao Ngày, ông mới tìm thấy được ở ban đêm, ở bóng tối chỗ ẩn náu, nơi trở về an toàn, tịch lặng nhất với những vỗ về an ủi cho mình. Ông nhắc rất nhiều đến những đêm tối, những hoàng hôn, những đêm khuya trong nhạc. Đó là những lúc để ông nhìn ngắm lại cuộc đời mình. Đó cũng là lúc ông "đau đớn nhận ra rằng cuộc đời đã cho ta lắm ngày bất hạnh." ông viết như thế ở trang 275 của tuyển tập Những Bài Ca Không Năm Tháng. Ông là người đi lạc trong một thành phố tưởng là quen thân lắm. Nhưng thực ra, Trịnh Công Sơn không thuộc vào một nơi nào hết. ông cứ đứng ở bên ngoài, tự chọn cho thế đứng không nhập cuộc, hai vai hai vầng nhật nguyệt, thư thái trên con đường chỉ một mình đi. Trong Một Cõi Đi Về, câu: "... Trăm năm vô biên chưa từng hội ngộ. Chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà..." chỉ một câu này, cũng đủ để bày ra tất cả sự cô đơn khủng khiếp ông phải đối mặt mỗi ngày trong đời sống rất nhiều tiếng động. Thái độ cô đơn đứng ngoài một mình không tham dự và nhập cuộc của Trịnh Công Sơn còn được thấy rõ hơn trong bài Tự Tình Khúc. Ông thấy mình là đứa bé ngồi nhìn thế kỷ qua đi, vẫn không thấy được nơi nương tựa, vẫn cứ chỉ là ngọn đèn nhỏ thắp lên cho riêng mình. Bài ballad viết về sự cô đơn ấy đầy những hình ảnh xót xa hết sức bi thảm và cảm động. Trên cái vực thẳm ngó xuống lòng sâu của cô đơn, ông ngồi một mình.
Căn bản, các sáng tác của Trịnh Công Sơn là nhạc tình. Bài Tình Xa là một ca khúc ông viết cùng thời gian với Tình Nhớ Tình Sầu để thành một trilogy trong giai đoạn sáng tác đầu tiên của ông. Và trong Tình Xa, sóng được cho dội vào đời buốt giá, gió cát phù du bay về để nói về nỗi cô đơn của ông. ông dùng hơn một tình khúc để nói về sự cô đơn đó. Và tình yêu, tưởng là điều đem lại những vỗ về an ủi cho ông, thì cũng lại phản bội, lọc lừa. Những dòng sông trở thành biểu tượng của chuyến bỏ đi, cơn mưa thành lời hẹn thề, thành phố hoang vu khi cuộc tình đi qua, tình cúi đầu trong tiếng buồn rơi đều. Sự cô đơn đã là một cơn đau suốt đời của Trịnh Công Sơn. Nhưng chính ông đã lựa chọn để sống với nó. Cũng như Socrates, ông thà sống khốn khổ còn hơn.



9_ Những để lại
Nhiều so sánh đã được đưa ra để tạo ấn tượng về một sự việc ít ai biết với một sự việc đã quen thuộc với nhiều người. Thí dụ khi nói nhà văn X là một Solzhenitsyn của văn chương Pháp, họa sĩ Y là một Cezanne của hội họa ý, nhà thơ Z là Đỗ Phủ của thi ca Đại Hàn... thì người nghe có ngay một số khái niệm về các ông XYZ ngay. Nhưng cũng rất nhiều khi những so sánh này lại là những bất công đáng kể với những tiêu chuẩn được đem ra dùng để so sánh. Các ông Solzhenitsyn, Cezanne, Đỗ Phủ lớn hơn các ông XYZ chẳng hạn. Và cũng có những trường hợp ngược lại.
Joan Baez, một nữ ca sĩ nhạc dân ca – folk singer – của nhạc Mỹ, khi được giới thiệu với Trịnh Công Sơn, đã đưa ra một so sánh lập tức: Trịnh Công Sơn là Bob Dylan của Việt Nam. Việc Joan Baez làm cũng dễ hiểu: cô tạo được sự nghiệp ca hát phần lớn là nhờ nhạc của Bob Dylan, những ca khúc chống chiến tranh của người nhạc sĩ này. Nhưng cô chưa biết được đủ về Trịnh Công Sơn. Nguyên số lượng ca khúc mà Trịnh Công Sơn viết đã nhiều hơn số ca khúc của Bob Dylan. Mà đó mới chỉ nói về số lượng sáng tác. Như vậy sự so sánh có bất công cho Trịnh Công Sơn. Bob Dylan viết một số nhạc phản chiến – anti war songs – và phản kháng – protest songs – cùng một số đề tài khác. Trịnh Công Sơn viết nhạc phản chiến, phản kháng, nhưng chủ yếu là tình ca, những đề tài khác là quê hương, thân phận con người, trong đó, triết lý và tôn giáo là những nét nổi bật. Bài nổi tiếng nhất của Bob Dylan là ca khúc Blowin' In The Wind, bài hát nói về chiến tranh, bom đạn, chết chóc, ước mơ hòa bình được coi như bài hát đầu môi của các phong trào phản chiến hồi thập niên 60. Nhưng Blowin' In The Wind vẫn chưa tới được mức bi thảm của các ca khúc Chính Chúng Ta Phải Nói, Người Già Em Bé, Nước Mắt Cho Quê Hương hay Đại Bác Ru Đêm.
Pete Seeger là một nhạc sĩ dân ca hàng đầu của Mỹ. ông cũng viết nhiều ca khúc chống chiến tranh, và một trong những bài nổi tiếng của ông được hát rất nhiều trong những sinh hoạt chống chiến tranh của thập niên 60 là bài Where Have All The Flowers Gone. Pete Seeger lớn tuổi hơn Trịnh Công Sơn và Bob Dylan nên không được đem ra so sánh. Nhưng cùng những ý tưởng và hình ảnh thì Where Have All The Flowers Gone chưa bi thảm bằng Người Con Gái Việt Nam Da Vàng hay Tình Ca Người Mất Trí. Pete Seeger cũng viết về nước Mỹ, This Land Is Your Land, nhưng lòng yêu thương đất nước: Đất này là đất của anh, đất này là đất của tôi, từ rừng hồng mộc miền tây đến biển đầy bọt trắng miền đông, đất này được tạo ra cho chúng ta... không thể cảm động như Huế Sài Gòn Hà Nội của Trịnh Công Sơn. Huế Sài Gòn Hà Nội có tiếng hối thúc, réo gọi, hừng hực...
Trịnh Công Sơn viết tình ca nhiều hơn Burt Bucharach mặc dù số lượng mà tác giả của í'll Never Fall In Love Again, của Raindrops Keep Falling On My Head, Alfie, Anyone Who Had A Heart cũng đã nhiều. Nhiều nhưng chưa thể vượt quá con số 127 bài mà Trịnh Công Sơn chọn để in trong tuyển tập Những Ca Khúc Không Ngày Tháng sau khi đã bỏ ra ngoài một số rất lớn những ca khúc viết về các đề tài khác của ông. Một đóa quỳnh không bao nhiêu người biết, qua những khuông nhạc của Trịnh Công Sơn, nó biến thành một lời tỏ tình. Những bước chân trở về của người phụ nữ không may mắn, làm công việc rất bất hạnh của xã hội đã thành một tình khúc bi thảm, bài Nghe Những Tàn Phai.
Những chi tiết vừa kể cho thấy đem những tên tuổi khác để so sánh với Trịnh Công Sơn là một việc vừa sai lầm vừa bất công.



 
 
10_ Như một lời chia tay
Ở tuổi hai mươi mấy, ít người viết những lời ca như trong bài Cát Bụi. Và cũng không nhiều người viết di chúc hay những chữ khắc trên mộ bia cho mình ở cái tuổi ấy, ít người nghĩ đến cái chết, đến sự trở về với những hạt cát, những hạt bụi của nguyên thủy. Trịnh Công Sơn đã làm công việc ấy một cách quá sớm. ông viết Cát Bụi năm ông chưa tới 30 tuổi, như thể ông nhìn thấy sự ra đi ngay trong sự sống qua những hạt bụi. ... Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi... ôi cát bụi phận này, vết mực nào xóa bỏ không hay... Rồi vài chục năm sau, ông lại viết: "... trong xuân thì thấy bóng trăm năm..."  ông luôn luôn nhìn thấy cái chết ở sự sống, trong hạnh phúc có bất hạnh, trong hôm nay có ngày mai, "dưới vòng nôi mọc từng nấm mộ, dưới chân ngày cỏ xót xa đưa. ". Cuối năm 1992, trong những dòng viết ở cuối tập nhạc Những Bài Ca Không Năm Tháng Trịnh Công Sơn viết: "mỗi ngày sống tới, mỗi ngày tôi thấy đời sống nhỏ nhắn thêm... Đời sống thật sự không tiềm ẩn điều gì mới lạ. Có lẽ vì thế, sự quen mặt mỗi lúc mỗi gần gũi, thắm thiết hơn, nên tôi càng thấy yêu mến cuộc đời." Đó lại là những điều viết xuống của một người nói rất nhiều đến cái chết. Thực sự, ông là người rất yêu đời sống như lời ca của bài Hãy Cứ Vui Như Mọi Ngày. Thí dụ:
...Hãy cứ vui như mọi ngày
Bên trời còn nắng
Lá trời còn xanh
phố còn người đông...
Rồi ông lại viết Hãy yêu ngày tới dù quá mệt kiếp người trong Để Gió Cuốn Đi, một bài hát đọc thấy tấm lòng của ông với đời sống bằng nhịp 3/4 thư thả mà thiết tha. Có lúc ông quay ra đùa cợt với cuộc đời, mà ông coi chỉ là nơi ông ở trọ. Mượn chút hơi dân ca, ông nhờ không khí lục bát trong ca dao để viết bài Ở Trọ bằng nhịp 2/4 vừa lẳng lơ vừa lý lắc những bước nhún nhẩy. Coi mọi thứ tình yêu, cuộc sống chỉ là vô thường, lúc có lúc không. Toàn bài nghe như những công án Thiền. Bài ca lời lẽ giản dị, có lúc tươi tắn lạ thường, lại là những tư tưởng rất Phật giáo, được kéo xuống gần gũi hơn nhờ những í a của dân ca miền Bắc. Trịnh Công Sơn viết nhạc cho người khác hát. ông ít khi hát nhạc của mình trước đám đông mặc dù ông có giọng tốt. Thêm nữa, là người viết những ca khúc ấy, ông hát chắc phải rất chính xác. Bài Như Một Lời Chia Tay đã được thu thanh bởi ít nhất là hai giọng hát mà ông rất tin cậy. Nhưng ca khúc này, hát lên bằng giọng của ông, lại mang một nét khác nữa. ông hát mà như gửi lại những điều đã đi qua đời ông cho người nghe, như đóng lại trang cuối cùng của cuốn sách. Lời ca của bài Như Một Lời Chia Tay đọc lên, không cần phải nghe ông hát cũng đủ tạo xúc động. ông xếp lại đời sống, ông cám ơn cuộc đời, ông nhìn lại những cuộc tình, ông nhớ lại bông hoa mỏng manh cuối trời, coi đó như một lời giã biệt. ý của lời ca thì bi đát, nhưng nghe qua giọng của ông, người nghe thấy đươc sự bình thản của ông khi từ biệt cuộc sống.
Trịnh Công Sơn đã về với cát bụi, giã từ nơi ông ở trọ. ông biết trước chuyến đi về nơi vĩnh hằng. Nhưng ông cũng sẽ còn ở lại với chúng ta mãi mãi. Chúng ta mãi mãi nhớ ông, biết ơn ông, biết ơn ông đã nói hộ chúng ta những điều khó nói nhất, biết ơn ông đã vỗ về an ủi cuộc đời chúng ta trong những lúc hân hoan hạnh phúc cũng như những lúc sầu thảm bất hạnh.
Ba trăm năm nữa sẽ còn người hát và nghe những gì ông để lại.
Đó là món quà âm nhạc ông để lại. Đó là một món quà mà thỉnh thoảng lắm, có khi là vài trăm năm Việt Nam mới được một món quà quí giá như thế.

Xin Cảm Ơn Trịnh Công Sơn.


BÙI  BẢO  TRÚC


Cho đến nay, trước sau có ba nhạc sĩ Việt Nam tự nhận mình là người hát rong: Phạm Duy, Trịnh Công Sơn và Trần Tiến. Phạm Duy rong ruổi trên con đường cái quan, suốt từ Bắc vào Nam, rồi ra ngoài đất nước, đi khắp vòng thế giới để cuối cùng, trở về điểm mốc ban đầu: quê nhà. Trần Tiến muốn nói lên sự thật về một đất nước thừa nghèo đói nhưng cũng không thiếu điều nhố nhăng trên những nơi ông đi qua. Còn Trịnh Công Sơn, người nhạc sĩ của hơn tám trăm ca khúc, đã cùng âm nhạc của mình lang thang mãi giữa những lằn ranh của nắng-mưa, yêu-ghét, cảm thông-chối bỏ, sống-chết, đi-về, nhớ-quên, buồn-vui, chiến tranh-hoà bình, hận thù-ăn năn...
Năm 1991, trong lời bạt của tập bài hát Em còn nhớ hay em đã quên, nhạc sĩ Văn Cao viết: “Tôi gọi Trịnh Công Sơn là người ca thơ (chantre) bởi ở Sơn, nhạc và thơ quyện vào nhau đến độ khó phân định cái nào chính, cái nào là phụ. Và bởi Sơn đã hát về quê hương đất nước bằng cả tấm lòng của một đứa con biết vui tận cùng những niềm vui và đau tận cùng những nỗi đau của Tổ quốc mẹ hiền... Cái quyến rũ của nhạc Trịnh Công Sơn là ở chỗ không định tạo ra một trường phái nào, một triết học nào, mà vẫn thấm vào lòng người như suối tưới. Với những lời, ý đẹp và độc đáo đến bất ngờ hôn phối cùng một kết cấu đặc biệt như một hình thức của dân ca hầu như không thay đổi, Trịnh Công Sơn đã chinh phục hàng triệu con tim, không chỉ ở trong nước, mà cả ở bên ngoài biên giới nữa”. Như vậy, nhạc sĩ Văn Cao, cũng như nhạc sĩ Phạm Duy trong tập Hồi ký của mình, đã nhắc về Trịnh Công Sơn với những lời lẽ đơn sơ nhưng trân trọng. Rất nhiều người khác trong giới văn nghệ sĩ đã đồng ý gọi Trịnh Công Sơn là nhạc sĩ của Tình Yêu-Quê Hương-Thân Phận. Thật vậy, trong sự nghiệp sáng tác của ông, bên cạnh những tình khúc lãng mạn, những ca khúc phản chiến, kêu gọi xây dựng đất nước trong hoà bình, còn có những bài hát, như những dấu chấm hỏi và dấu chấm than về thân phận con người.
Tình khúc của Trịnh Công Sơn, với những cái tựa rất ấn tượng và siêu thực như Nắng thuỷ tinh, Rồi như đá ngây ngô, Biển nhớ, Hạ trắng, Lời buồn thánh, Hoa vàng mấy độ... một lần được nghe, sẽ ở lại mãi trong lòng người thưởng thức. Ca khúc về thân phận cuả ông, đôi bài rất gần với thánh ca, đạo ca, thiền ca, dân ca, được không ít người suy gẫm: Lời mẹ ru, ở trọ, Xin mặt trời ngủ yên, Tự tình khúc, Gần như niềm tuyệt vọng, Một cõi đi về, Biết đâu nguồn cội, Bay đi thầm lặng... Chỉ có những ca khúc phản đối chiến tranh, kêu gọi hoà bình của ông thời 1968-1973 và một số bài hát viết sau năm 1975 là tạo nhiều “vấn đề”, biến ông thành người hát rong giữa những lằn ranh của định kiến ý thức hệ. Trong thời gian sáng tác các ca khúc của hai tập Ca khúc da vàng và Kinh Việt Nam, Trịnh Công Sơn đã phát biểu: “Tôi phản đối chiến tranh, dù đó là chiến tranh chính nghĩa hay phi nghĩa”. Hình ảnh và tiếng nói cuả ông xuất hiện khắp mọi nơi trên thế giới, nhưng đồng thời, trong nước, một số ca khúc của ông bị cấm phổ biến. Chính quyền miền Bắc, với khẩu hiệu “Chống Mỹ cưú nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”, ra lệnh bỏ tù những ai dám nghe và hát nhạc Trịnh Công Sơn vì không ít những cán bộ, bộ đội đã vì thế mà bỏ ngũ, quay lưng quay súng trong các chiến dịch “chiêu hồi”. Chính quyền miền Nam, dưới chiêu bài “Bảo vệ Tự Do, chống sự xâm lăng của cộng sản phương bắc”, cấm hàng loạt ca khúc cuả Trịnh Công Sơn vì cho rằng những bài hát này làm băng hoại tinh thần chiến đấu của quân dân miền Nam, khiến binh lính đào ngũ, người dân biểu tình, bãi thị, bãi khoá... Thế nhưng, ngay giữa Hà Nội, chính nhạc sĩ Văn Cao đã được nghe những người thanh niên trẻ say mê hát nhạc phản chiến đến đứt cả dây đàn guitare. Tại Sài Gòn và các thành thị phiá nam, bên cạnh những bài hát day dứt, nói lên nỗi thống khổ, tủi nhục, mất mát trong chiến tranh như Đi tìm quê hương, Em đi trong chiều, Giọt nước mắt cho quê hương, Gia tài của mẹ… những bài hát hừng hực khí thế tuổi trẻ đã được sinh viên, học sinh và hướng đạo sinh say mê vỗ tay mà hát. Họ mong muốn những gì? Được Nối vòng tay lớn, Dựng lại người dựng lại nhà và Chờ nhìn quê hương sáng chói. Cũng cùng một ý hướng như các nhạc sĩ Phạm Duy và Phạm Đình Chương khi sáng tác hai trường ca Con đường cái quan và Hội Trùng Dương, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn mong muốn được nhìn thấy một đất nước Việt Nam thống nhất trong hoà bình và giàu mạnh khi ông viết các ca khúc rất lạc quan: Huế-Sài Gòn-Hà Nội quê hương ta, Tôi sẽ đi thăm, Đồng dao hoà bình, những ca khúc được viết khi ông vừa hát vừa bị rượt đuổi và đang sống lê la trốn lính với các bạn bè giang hồ.
Sinh ở Đắc Lắc, nổi tiếng ở Sài Gòn, nhưng trong hai thời điểm đau thương cuả miền Nam, 1968 và 1975, Trịnh Công Sơn lại có mặt ở Huế. Những hình ảnh hãi hùng của Tết Mậu Thân đã để lại nhiều dấu vết trong một số ca khúc cuả ông. Điạ danh Bãi Dâu, hình ảnh người mẹ hoá điên khi nhìn ra thi thể con mình trong hầm chôn tập thể, thay vì gào khóc lại vỗ tay reo mừng, hay câu hát Xác nào là em tôi giữa hố hầm này?, như những đoạn phim thời sự, vạch trần tội ác chiến tranh và sự tàn bạo của những người chung một nòi giống. Sau năm 1975, Trịnh Công Sơn lại ra sống ở Huế và cứ một năm vài tháng, lại tham gia vào những chuyến lao động trồng khoai sắn trên những cánh đồng còn gài đầy mìn tại Cồn Thiện, gần vĩ tuyến 17. Mãi đến năm 1979, ông mới được phép vào sống cùng gia đình tại Sài Gòn, lúc này đã mang tên thành phố Hồ Chí Minh. Ca khúc đầu tiên sau biến động 30.04.1975 được ông vừa đàn vừa tự trình bày trên truyền hình mang tưạ đề Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui. Bài hát lập tức bị đả kích ở trong cũng như ngoài nước. Báo chí trong nước lên án bài hát đậm đặc tính chất tiểu tư sản, những hình ảnh “Tôi nhặt gió trời, mời em giữ lấy, để mắt em cười tưạ lá bay... Tôi đợi em về, bàn chân quen quá, thảm lá me vàng lại bước qua...” không thể nào chấp nhận được trong khi cả nước sôi sục khí thế lao động và chiến đấu chống Khơ-me đỏ và “bọn bành trướng Bắc Kinh”. Báo chí của người Việt hải ngoại đặt câu hỏi: niềm vui ở đâu ra lắm thế trong khi quê hương lầm than, nhiều triệu người ly tán, bị tù đày trong các trại cải tạo hoặc vượt mọi hiểm nguy tìm đường vượt biển. Cũng thế, bài hát Em còn nhớ hay em đã quên ra đời sau đó cũng không thoát khỏi búa rìu dư luận. Trong khi chuyện vượt biên còn là điều cấm kÿ, những người bỏ nước ra đi cách này hay cách khác đều bị khép tội phản quốc, Trịnh Công Sơn viết: “Em ra đi, nơi này vẫn thế, vẫn có em trong tim cuả mẹ”. Sau khi được Khánh Ly trình bày trên đài VOA (Voice Of America) trong chương trình phát thanh về Việt Nam, bài hát liền lập tức bị cấm phổ biến tại quốc nội. Ở hải ngoại, bài hát bị lên án là ủy mị, làm mủi lòng người lưu vong, trong khi nhạc phẩm Khi xa Sài Gòn (phổ thơ Kim Tuấn) của Lê Uyên-Phương, khi ấy đã định cư tại Hoa Kỳ, lại không bị chỉ trích, dù nội dung và nhạc điệu buồn bã của hai ca khúc tương tự như nhau. Chỉ có người Sài Gòn vẫn tiếp tục lén lút phổ biến bài hát, bởi vì nó gợi lại một thời xưa cũ, bởi vì đó là bài hát đầu tiên ở trong nước, từ sau ngày 30.04.1975, nhắc đến cái tên Sài Gòn, cái tên mà chính quyền mới đã tìm đủ mọi cách để làm cho mọi người quên đi. Có lẽ, vào thời điểm đó, chính người Sài Gòn cũng cảm thấy mình đang sống lưu vong ngay giữa Sài Gòn !
Không chọn con đường quay lưng chống đối, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn quyết định ở lại với đất nước, dù bạn bè và các em của ông lần lượt ra đi. Sau nhiều năm tháng lao động cải tạo trên những mảnh đất gài đầy mìn, ông viết: “Tôi chọn nơi này cùng nhau ca hát, để thấy tiếng cười rộn rã bay”. Nhưng như vậy, không có nghĩa là ông tự phản, ông chấp nhận sống chung để cùng thay đổi, đồng thời, vẫn đi được con đường riêng của mình. Nhìn lại những ca khúc của Trịnh Công Sơn được phổ biến trong nước khoảng thập niên 80, người ta thấy, ngoài những ca khúc viết cho phim truyện và phim tài liệu: Đời gọi em biết bao lần, Cánh chim cô đơn, Vẫn có em bên đời, Bốn muà thay lá..., ông còn một số bài hát viết về quê hương, về mẹ, về tuổi mới lớn và tuổi thơ như các bài Huyền thoại Mẹ, Chiều trên quê hương tôi, Em đến từ nghìn xưa, Tuổi đời mênh mông, Em là hoa hồng nhỏ... Vắng bóng những tình ca, nhưng không hề có một lời xưng tụng chế độ, đảng cầm quyền cũng như những người lãnh đạo. Trong khi giới truyền thông trong nước kêu gào, thổi phồng tin một số nữ thanh niên xung phong bị hãm hiếp và giết hại dã man ở biên giới tây nam, Trịnh Công Sơn sáng tác một ca khúc vui tươi, với những lời lẽ nhẹ nhàng: “Lên nông trường, ra biên giới, có đôi chân đi không trở lại...”. Viết cho thiếu nhi, khi ấy vẫn còn bị nhồi nhét lòng căm thù trong các bài học, ông có những câu rất đẹp: “Trang sách hồng nằm mơ màng ngủ, em gối đầu trên những vần thơ...”. Và, rất lâu trước khi các ca khúc lãng mạn về Hà Nội của thập niên 90 ra đời, khi người ta còn bị bắt buộc phải nghĩ đến Hà Nội như nghĩ đến một “thành trì cách mạng”, với quảng trường Ba Đình và lăng Hồ chủ tịch, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn mở đầu ca khúc Nhớ mùa thu Hà Nội bằng một hình ảnh tương tự như tranh Bùi Xuân Phái:
Hà Nội mùa thu,
Cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ
Nằm kề bên nhau,
Phố xưa, nhà cổ, mái ngói thâm nâu...
Hình như mọi người không ngạc nhiên khi biết, từ đầu năm 1975, Trịnh Công Sơn bắt đầu tìm đến với hội hoạ, và tranh của ông có một đường hướng riêng, một chỗ đứng riêng. Bởi vì, trong các ca khúc, ông đã “vẽ” rất nhiều bằng lời hát đầy chất thơ cuả mình. Những hình ảnh ngàn cây thắp nến lên hai hàng, chiều tím loang viả hè, trời ươm nắng cho mây hồng, lòng ta trăm con hạc gầy vút bay, bàn im hơi bên ghế ngồi... kết hợp cùng âm thanh du dương, tạo nên nét độc đáo trong âm nhạc Trịnh Công Sơn. Người nữ, hao hao giống những modèle cuả Đinh Cường, ẩn hiện trong hàng trăm ca khúc: vai em gầy guộc nhỏ, dài tay em mấy thuở mắt xanh xao, đôi môi lửa cháy, mi cong cỏ mượt, da thơm quả ngọt, áo xưa lồng lộng... Tình yêu, cũng vì thế, thường yểu mệnh trong các bài hát cuả Trịnh Công Sơn, tình vui rất hiếm, Tình buồn, Tình xót xa vừa, Tình xa, Tình nhớ, Tình sầu, nhiều hơn...
Một người nữ khác, người mẹ, cũng xuất hiện khá nhiều trong các nhạc phẩm của Trịnh Công Sơn. Từ hình ảnh thanh bình: Lời mẹ ru đêm vắng, ngón tay hồng, người mẹ đi qua chiến tranh, tủi phận trong Ca dao Mẹ, hoặc nghẹn ngào thốt lên: Con ngủ tuổi hai mươi. Có khi đó là bà mẹ quê, ngơ ngác giữa đoàn người di tản, với gia tài chỉ vỏn vẹn có mỗi trái bí trên vai. Có khi đó là người mẹ gan dạ đứng dưới mưa để chờ xoá sạch dấu con về. Sau chiến tranh, tưởng đâu những người mẹ ấy sẽ yên tâm lên núi tìm xương con mình, hoặc dâng miếng cau rồi dâng ngọn trầu, nhưng cuộc “nội chiến” vẫn tiếp diễn dưới một hình thức khác, mẹ vẫn trăn trở giọt ngắn giọt dài, mong lũ con cùng cha quên hận thù... Hình ảnh mẹ, cuối cùng trở nên huyền ảo: Sương mù, tóc mẹ trôi, Mẹ chìm dưới cơn mưa, trước khi biến mất hoàn toàn trong tiếng kêu than thống thiết của đàn con: Mẹ bỏ con đi, đường xa hoạn nạn...
Hình ảnh người mẹ thường gắn liền với lời ru. Nhưng lời ru trong âm nhạc Trịnh Công Sơn đã chuyển sang thành tiếng những tình nhân thổn thức ru nhau, hoặc tự ru mình. Nếu tình khúc Tôi ru em ngủ bắt đầu với nhạc điệu êm ả và lời hát gợi cảnh yên bình: “Tôi ru em ngủ một sớm mùa đông, em ra ngoài ruộng đồng, hỏi thăm cành luá mới...”, trong những ca khúc khác, như Ru em, Ru em từng ngón xuân nồng, Ru tình, Rơi lệ ru người, Ru đời đi nhé!, Ru đời đã mất, Ru ta ngậm ngùi..., lời ru lãng đãng giưã bâng khuâng, nhớ nhung, hoang mang, ưu phiền, ăn năn cuả tình yêu và sự khắc khoải của thân phận trước giấc ngủ sau cùng, cái chết: “Ta ru ta ngậm ngùi, xin ngủ dưới vòm cây”. Cái chết, một chủ đề ám ảnh thường trực hành trình âm nhạc của Trịnh Công Sơn. Trong chiến tranh, cái chết đến với mọi người, ở mọi nơi. Người con gái Việt Nam da vàng chết trong đêm lạc đạn. Đưá bé ra đồng chết vì mìn gài một buổi sáng muà xuân. Người phi công gẫy cánh. Đám tang đi qua trái mìn nổ chậm, người chết, chết hai lần. Những cụm từ xác người, người yêu chết trận xuất hiện đậm đặc trong các ca khúc bài ca dành cho những xác người, Hát trên những xác người, Tình ca người mất trí như sự lặp đi lặp lại của những hồi kinh cầu hồn. Những người chết, người dân, người lính, của “phiá bên này” hay “phiá bên kia”, đôi khi chết mà không hiểu vì sao mình phải chết. Với bản thân người nhạc sĩ, cái chết dường như ít khốc liệt hơn, hình như chỉ là nằm chết như mơ, hình như chỉ đơn giản một hôm lên núi nằm xuống, hay: “Thí dụ, bây giờ tôi phải đi, tay chia ly cùng đời sống này...”. Trong các sáng tác có tính chất đạo ca của Trịnh Công Sơn, cái chết còn đến rất gần với thuyết luân hồi của nhà Phật:
Không có đâu em này,
Không có cái chết đầu tiên,
Và có đâu bao giờ,
Đâu có cái chết sau cùng...
Có thể nói không một cách không quá đáng rằng Trịnh Công Sơn là một nhà cách tân ngôn ngữ Việt Nam đương đại. Qua vô số hình ảnh tuyệt vời ông đưa vào lời hát rất nhiều so sánh, hoán dụ, ẩn dụ đắt giá: tóc trắng như vôi, chập chờn lau trắng trong tay, biển rộng hai vai, đá lăn vết lăn trầm, tình treo trên chiếc đinh không, đôi môi rồ dại, giọt máu cuồng điên, nắng khuya, mắt đêm đèn vàng, tình yêu như trái phá - con tim mù loà, đời sao im vắng như đồng luá gặt xong, đôi khi thấy trên lá khô một dòng suối, thuyền nào chở mất thuyền quyên?... Ông sử dụng tài tình sự tương phản và đôi khi dùng những vế câu thật đơn giản để đẩy cao hơn điều muốn nói:
người vinh quang mơ ước điạ đàng / người gian nan mơ ước bình thường
=> làm sao đến gần hy vọng cuộc vui chung?
hay:
Dù mùa xuân đã đến đây / Vẫn còn tiếng khóc thầm,
Triệu nụ hoa đang thoát thai / Viên đạn vẫn trên nòng...
Tự học nhạc và bắt đầu sáng tác từ khi chưa đến hai mươi tuổi, âm nhạc của Trịnh Công Sơn đi thẳng từ trái tim người sáng tác đến trái tim người nghe, không bị lệ thuộc vào ảnh hưởng của âm nhạc kinh viện, âm nhạc thương mại hay âm nhạc trình diễn, do đó, chỉ nằm trong các thể điệu slow, slow-rock, blues, boston, valse hoặc surf, swing, soul chậm và hành khúc mà thôi. Ngoại trừ nhạc phẩm phổ thơ Trịnh Cung Cuối cùng cho một tình yêu, liên-tiểu-khúc Đoá hoa vô thường và một số ca khúc sáng tác chung với nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu, các ca khúc khác của ông có giai điệu đơn giản, đôi khi đơn điệu, nhưng luôn thăng hoa theo lời hát. Đó chính là đặc điểm và cũng chính là giới hạn của âm nhạc Trịnh Công Sơn.
Khởi đầu bằng các ca khúc Ướt mi, Thương một người và kết thúc với Sóng về đâu?, Đồng dao 2000, suốt hơn bốn mươi năm qua, âm nhạc Trịnh Công Sơn đã đến với thính giả qua tiếng hát và cách trình bày của nhiều thế hệ ca sĩ. Từ Thái Thanh đến Ý Lan, Quỳnh Hương, Duy Quang, Thái Hiền, Thái Thảo, Thiên Phượng, Mai Linh. Từ Thanh Thúy, Giao Linh, Lệ Thu, Lê Uyên đến Thanh Lan, Nguyễn Chánh Tín, Carol Kim, Thúy-Hà-Tú, Tuấn Ngọc, Đức Huy, Hoạ Mi. Từ Vũ Khanh, Ngọc Lan, Kiều Nga, Hương Lan, Ái Vân, Như Mai, Don Hồ, Dalena đến Thanh Hà, Thùy Dương, Huy Tâm, Mỹ Huyền, Lâm Nhật Tiến, Hoàng Nam. Từ Duy Trác, Quỳnh Giao đến Nguyễn Thành Vân, Trần Thái Hoà. Từ Lê Dung, Cẩm Vân, Bảo Yến, Lan Ngọc, Thanh Hải đến Khắc Dũng, Thu Hà, Thanh Lam, Tam ca áo trắng, Mỹ Linh, Bảo Phúc, Trần Thu Hà... Nhưng có lẽ chỉ có Khánh Ly và Hồng Nhung là hai tiếng hát đã để lại dấu ấn sâu đậm nhất trong lòng người nhạc sĩ cũng như người thưởng thức. Ca sĩ Khánh Ly nghĩ rằng bài hát Yêu dấu tan theo có lẽ được viết riêng cho cô. Bài hát có những câu: “Em theo đời cơm áo, Mai ra cùng phố xôn xao, bao nhiêu ngày yêu dấu tan theo...”. Ngoài ra, trong một ca khúc viết lúc cuối đời, “Em đi bỏ mặc con đường”, hình như cũng thấp thoáng đâu đó đôi lời trách cứ: Bỏ xa xôi yêu và gần gũi, bỏ mặc tôi buồn giưã cuộc vui... Bỏ tôi hoang vu và nhỏ bé, bỏ mặc tôi ngồi giưã đời tôi”... Đối với cô bé Bống Hồng Nhung, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã riêng tặng một tam khúc: Bống bồng ơi, Bống không là Bống và Thuở Bống là người. Theo Trịnh Công Sơn, Khánh Ly là người hát hay nhất những sáng tác cuả ông, nhưng nếu Khánh Ly hát cho một thời vừa lãng mạn vừa đau thương trong chiến tranh đã qua, thì Hồng Nhung làm mới lại những ca khúc, với cách biểu hiện mới, phù hợp với tiết tấu của thời hiện đại. Ông cũng thường nhắc đến tên ca sĩ Trịnh Vĩnh Trinh, chính là em gái út cuả ông.
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, với đôi mắt kính gọng đồi mồi, với cây đàn guitare và giọng hát khàn âm hưởng Huế, với cả những điếu thuốc lá và những ly rượu mạnh, đã đi-qua-cuộc-đời và giã từ chúng ta ở tuổi sáu mươi hai. Bị bệnh tiểu đường nặng, những ngày cuối cùng, ông phải di chuyển bằng xe lăn, đúng như câu hát đã viết trước đó hơn hai mươi lăm năm:
Mệt quá đôi chân này,
Tìm đến chiếc ghế nghỉ ngơi,
Mệt quá thân ta này,
Nằm xuống với đất muôn đời...
Xác thân ông đã nằm xuống với đất, về làm cát bụi, nhưng thần trí ông, vừa giã từ cõi tạm, có lẽ đang bay lượn đâu đó giữa chốn vô cùng, và tất cả, hình như, chỉ là một lời chia tay mà thôi:
Những hẹn hò từ nay khép lại,
Thân nhẹ nhàng như mây...
Đoá hoa vàng mỏng manh cuối trời
Như một lời chia tay...


Cổ Ngư





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

To Top Page Up Page Down To Bottom Auto Scroll Stop Scroll
Comments jQuery Recent Posts Ticker Widget