Hình ảnh những cô gái thướt tha trong tà áo dài
duyên dáng từ lâu đã trở thành biểu tượng của Việt Nam. Tuy nhiên, nhìn lại quá trình
phát triển lịch sử trang phục dân tộc, Việt Nam không chỉ có áo dài mà còn có
áo yếm - thứ trang phục không thể thiếu của người con gái xưa.
Xưa kia áo yếm thường chỉ được gọi với cái tên nôm
na là cái yếm, đó là thứ trang phục đã có từ bao đời nay và vẫn còn giữ được
cho đến ngày hôm nay. Không chỉ vào chốn cung đình với các mệnh phụ công nương,
cái yếm còn ra ruộng đồng "dầm mưa dãi nắng" với người nông dân, và
cùng với chiếc áo tứ thân, cái yếm theo chị em đến với hội đình đám, góp phần
tạo nên bộ "quốc phục" của quý bà thời xưa.
Yếm
là một thứ trang phục nội y không thể thiếu của người phụ nữ
Việt xưa. Nó là một tấm vải hình thoi hoặc hình vuông
có sợi dây để quàng vào cổ và buộc vào sau lưng, được dùng để che ngực. Yếm thường được mặc chung với Áo cánh và áo tứ thân.
Áo yếm xuất
hiện trong cuộc sống của người dân Việt từ rất xa xưa, là một phần đi kèm với
áo tứ thân của phụ nữ miền Bắc. Không giống như các trang phục khác thời phong
kiến, áo yếm không phân biệt giai cấp, trở thành áo lót bên trong của phụ nữ
Việt ở mọi giai tầng xã hội, từ các tôn nữ, công chúa, các phu nhân, tiểu thư
của những gia đình quý tộc đến những người phụ nữ bình dân. Vào thế kỷ
18-19, chiếc yếm có hình vuông vắt chéo trước ngực, góc trên khoét làm cổ, hai
đầu đính mẩu dây để cột ra sau gáy. Yếm thường được dùng kết hợp với áo cánh
hoặc áo dài, mặc với nón quai thao, khăn nhiễu và khăn mỏ quạ. Hình ảnh chiếc
yếm đã đi vào ca dao Việt Nam,
trở thành một chủ đề quán xuyến quen thuộc, tạo nên sự lãng mạn và đáng yêu cho
những câu thơ ca tình tứ của dân tộc:
Hỡi
cô mặc áo yếm hồng
Đi
trong đám hội có chồng hay chưa?
Không phổ biến như tà áo dài truyền thống, nhưng áo
yếm mang lại nét dịu dàng và quyến rũ cho người con gái. Yếm đã đẹp, lại còn
lôi cuốn ở nét vừa kín vừa hở, vừa lạ vừa quen. Áo yếm, trang phục của phụ nữ
Việt Nam thời xưa, nay xuất hiện nhiều trở lại, qua các bộ sưu tập của các nhà
thiết kế thời trang hiện đại và xuất hiện nhiều cả trong nhiếp ảnh nghệ thuật.
Đến nay, những nhà thiết kế thời trang vẫn không ngừng sáng tạo, đem lại sức
sống mới cho trang phục truyền thống này. Có nhiều bộ sưu tập áo yếm đã được
giới trẻ hiện đại ưa chuộng. Các kiểu áo, váy phương Tây có dây buộc trên cổ,
giống với áo yếm cũng được ưa chuộng.
Điều này chứng tỏ “yếm đào” không dễ bị lãng quên.
Trước
khi dùng “soutien” như người phụ nữ Tây Phương, người phụ nữ Việt Nam đã biết
dùng cái yếm để che kín bộ nhũ hoa...Nói như thế không có nghĩa là cái yếm chỉ
có công dụng như cái "soutien" của người Tây Phương mà thực sự công
dụng của nó còn rộng rãi hơn nhiều. Trong lúc cái “soutien” chỉ dùng để che kín
và nâng đỡ bộ nhũ hoa thì cái yếm của người phụ nữ Việt Nam đôi khi còn có thể
dùng thay thế cho cái áo cụt “ra đường đi đâu gần gần mà chỉ bận yếm thì cũng
chẳng ai rầy” (1) hoặc, hơn thế nữa, “mùa nóng nực những người làm việc khó
nhọc chỉ mặc yếm che ngực, đủ kín đáo, không mặc áo”.
Về
hình thức, cái yếm của người phụ nữ Việt Nam trông thật đơn giản. Có lẽ, tùy
theo sở thích cá nhân hay truyền thống địa phương mà hình thức của cái yếm có
thể khác nhau đôi chút.
Theo
Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ trong Tự Điển Việt Nam (q.I, trang 669) chiếc yếm được
định nghĩa như sau: “Yếm: Miếng vải hình tam giác dùng che ngực : Cô kia mặc
yếm hoa tằm, Chồng cô đi lính cô nằm với ai. ”. Theo Trần Ỷ trong bài “Quê
Rích Quê Rang”, chiếc yếm được mô tả “là một tấm vải đen hay màu hồng, gần
như hình tam giác, có dải cột choàng ra sau cổ và sau eo”.
Theo
Nhất Thanh Vũ Văn Khiếu trong Đất Lề Quê Thói, “Yếm mặc để che kín ngực là
mảnh vải vuông, một góc may cổ xẻ, cổ thìa, hay cổ xây, có dải bọc treo lên cổ,
hai góc đối nhau vắt sang hai bên sườn may dải rộng quấn vòng sau lưng ra đàng
trước bụng, thường quấn chặt không để cho vú ngóc lên phô trương đường cong nét
gợi, không để cho rung rinh, dún dẩy, vươn ra quá cỡ.”
Theo
Anh Thy trong bài Nghìn Năm Dải Yếm Bắc Cầu, “Cái yếm đó có cấu tạo khá đơn
giản. Một mảnh vải hình thoi khoét tròn một đầu, được gắn dải lụa để buộc lại
sau cổ và lưng”.
Hai
ông Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ là người Nam, ông Trần Ỷ người miền Trung, ông
Nhất Thanh Vũ Văn Khiếu và ông Anh Thy là người Bắc. Như vậy, có lẽ cái yếm của
người miền Trung và người miền Nam có hình dáng gần giống như hình tam giác
khoét cổ ở đỉnh. ; trong lúc đó cái yếm cuả người phụ nữ miền Bắc lại có hình
dáng gần giống như hình vuông hay hình thoi và cổ yếm được khoét ở một góc.
Như ông Trần Ỷ đã nói trong bài vừa dẫn, “Yếm vừa che ngực vừa là món
trang sức của các cô đang độ xuân thì, nhờ màu sắc, nhất là cái cổ yếm là một
công trình tuyệt xảo của các cô gái khéo tay : đường viền chạy chân rết, luồn
được vào trong là cả một công phu.” :
Nhác
trông cái yếm cũng xinh
Khen
ai khéo dệt ra hình hoa mai
Khen
người khâu yếm cũng tài
Cổ
thêu con nhạn có hai đường viền
Cổ
thì em ngả màu hiên
Thắt
lưng mùi huyền, dải yếm cũng xinh
Khen
ai khâu yếm cho mình
Đường
lên đường xuống ra hình lưng ong
Yếm
này em ngả màu hồng
Yếm
này nhuộm mất mấy công hỡi nàng?
Khi
xưa lụa hãy còn vàng
Khen
ai khéo nhuộm cho nàng, nàng ơi!
Về các loại vải may yếm còn tùy chủ nhân của chiếc yếm (giàu nghèo, già
trẻ), tùy theo môi trường sử dụng yếm. Yếm mặc ở nhà hay khi đi lao động được
may bằng vải ta hay vải trúc bâu. Vào những ngày hội hè đình đám người ta
thường mặc yếm màu, con nhà khá giả mặc yếm vóc, yếm nhiễu là những loại vải quý
đắt tiền:
Hỡi
cô yếm thắm lòa lòa
Yếm
nhiễu, yếm vóc hay là trúc bâu?
Hay
là lụa bạch bên Tàu?
Người
cắt cũng khéo, người khâu cũng tài. . .
Về màu sắc, còn tùy theo sở thích cá nhân hay còn tùy theo môi trường
sinh hoạt. Thông htường người ta thường mặc yếm trắng hay yếm nâu trong nhũng
lúc ở nhà hay làm việc ngoài đồng áng. Những người đứng tuổi vẫn dùng hai màu
này là chính dù ở trong bất kỳ môi trường sinh hoạt nào. Khi tham dự các cuộc
hội hè đình đám, phần lớn phụ nữ trẻ tuổi thích mặc yếm màu.
Cô
kia yếm trắng lòa lòa
Lại
đây đập đất trồng cà với anh . . .
Ngoài chiếc yếm trắng hay yếm nâu thường may bằng loại vải ta mặc ở nhà
hay trong những lúc lao động, những chiếc yếm màu cũng được may bằng các loại
vải kể trên nhưng cũng có khi được may bằng những loại vải đắt tiền hơn và
thường được dùng trong các dịp Tết nhất, giỗ chạp hay trong các cuộc hội hè
đình đám:
*
Con cò lặn lội bờ ao
Phất
phơ hai dải yếm đào gió bay
*
Hỡi cô áo trắng yếm hồng
Đi
trong đám hội, có chồng hay chưa?
*
Hỡi cô yếm thắm răng đen
Muốn
lên mạn ngược ngồi thuyền cùng anh!
*
Chùa này chẳng có Bụt ru
Mà
đem chuông khánh treo chùa hồ sen?
Thấy
cô yếm đỏ, răng đen
Nam
mô di Phật lại quên mất chùa !
Cái yếm làm tăng độ duyên dáng của người phụ nữ nên cái yếm cũng có thể
là một trong những điều kiện tạo nên nét đẹp, nét duyên dáng của người phụ nữ
để người con trai lựa chọn ý trung nhân:
Một
thương tóc bỏ đuôi gà
Hai
thương ăn nói mặn mà có duyên
Ba
thương má lúm đồng tiền
Bốn
thương răng lánh hạt huyền kém thua
Năm
thương cổ yếm đeo bùa . . .
Tuy
hình thức của cái yếm trông có vẻ đơn giản, nhưng vì công dụng của nó mà nó hóa
ra quyến rũ khác thường. Mê cái yếm chính là mê con người mặc yếm. Hơn thế nữa,
có những cách mặc yếm nó làm cho người nhìn cũng phải ngất ngây vì sự kín đáo
nửa vời của nó. Theo tác giả Anh Thy, “Người phụ nữ khi làm lụng, nhất là trong
bóng râm, dù là vào thời kỳ Hùng Vương hay đầu thế kỷ XX, vẫn thường mặc
váy-yếm với hai tay và lưng để trần. Trời nắng thì thêm cái áo ngắn có xẻ tà
hai bên hông gọi là áo cánh. Áo có đính cúc nhưng khi mặc thường không cài, vừa
để cho mát, vừa để hở cái yếm làm duyên.”
Mà ngay cái yếm cũng chỉ để che kín phần ngực, phần lưng vẫn để trống
và đôi khi cái yếm còn được cắt hẹp lại để hở hai bên sườn trông thật hấp dẫn.
Câu ca dao dưới đây chắc đã được sáng tác trong khoảng thời gian người đàn ông
Việt Nam
còn đóng khố khi làm việc ngoài đồng áng:
Đàn
ông đóng khố đuôi lươn
Đàn
bà mặc yếm hở lườn mới xinh!
Vào cái thuở thật xa xưa đó, cái thuở chưa có cái xú chiêng ngự trị
trên cặp nhũ hoa của người phụ nữ Việt Nam mà chỉ có cái yếm trắng, yếm đào . .
. đã có biết bao nhiêu chàng trai chết mê chết mệt vì những cái yếm đó nhỉ?
Ngay cả những anh đồ, tức những ông thầy dạy chữ nho ngày xưa cũng phải lụy vì
cái yếm của những cô nàng thôn nữ :
Yếm
thắm mà nhuộm hoa nương
Cái
răng hạt đỗ làm tương anh đồ!
Yếm
thắm mà vã nước hồ
Vã
đi vã lại anh đồ yêu đương!
Cái yếm đã đẹp và gợi tình thì cái dải yếm nào có kém gì. Hình ảnh của
đôi dải yếm phất phơ trong gió sao mà quyến rũ, sao mà đa tình đến thế:
Con
cò lặn lội bờ ao
Phất
phơ hai dải yếm đào gió bay!
Con
cò ở đây là hình ảnh tảo tần của người phụ nữ Việt Nam.
Ngoài cái công dụng buộc miếng vải yếm vào phần ngực của người phụ nữ,
có người còn dùng dải yếm để buộc cái túi vải nho nhỏ đựng dăm bảy khẩu trầu
hay đựng mấy đồng tiền để dành:
Trầu
em têm tối hôm qua
Cất
trong dải yếm mở ra mời chàng!
Hay:
Trầu
đã có đây, cau đã có đây,
Nhân
duyên chưa định trầu này ai ăn
Trầu
này, trầu túi trầu khăn
Cùng
trầu dải yếm anh ăn trầu nào?
Hay:
Tiền
buộc dải yếm bo bo
Trao
cho thầy bói đâm lo vào mình!
Thông
thường, người phụ nữ tự chọn vải, chọn màu rồi tự cắt may lấy cái yếm để dùng.
Thế nhưng, đôi khi chiếc yếm cũng được sản xuất hàng loạt để đem bày bán. Và từ
đây, chiếc yếm đã là một tặng phầm hết sức thân tình để trở thành những kỷ vật
rất được trân trọng của người phụ nữ.
Có thể các bậc phụ huynh chọn một chiếc yếm có giá để làm quà cho cô
con gái trước ngày vu quy:
Con
lạy cha hai lạy một quỳ
Lạy
mẹ bốn lạy con đi lấy chồng
Mẹ
sắm cho con cái yếm nhất phẩm hồng
Thắt
lưng đũi tím, bộ nhẫn đồng con đeo tay
Có thể là một chàng trai mua một chiếc yếm để tặng người yêu:
Anh mua cho em cái yếm hoa chanh
Ra đường bạn hỏi, nói của anh cho nàng!
Có một chàng trai khen một cô gái mặc chiếc yếm thắm bé bé xinh xinh.
Chàng khen “người cắt cũng khéo, người khâu cũng tài”. “Người” ở đây chưa xác
định là ai. Thế nhưng, ngay mấy câu tiếp chàng lại xác định chính chàng đã thêu
nhạn, thêu hoa trên chiếc yếm:
Hỡi
cô yếm thắm lòa lòa
Yếm
nhiễu, yếm vóc hay là trúc bâu?
Hay
là lụa bạch bên Tàu?
Người
cắt cũng khéo, người khâu cũng tài!
Một
đàng anh thêu nên nhạn
Hai
đàng anh mạng nên hoa
Yếm
ấy anh để trong nhà
Khen
ai mở khóa đem ra cho nàng!
“Khen”
thì ai khen? Và “ai” ở đây là ai? “Yếm ấy anh để trong nhà” và chắc là “anh” đã
cất kỹ lắm, có thể là trong rương và chìa khóa “anh” giữ. Vậy thì “ai” có thể
“mở khóa đem ra cho nàng”? Còn ai trồng khoai đất này nữa chứ? Chính chàng đã
tự khen mình tạo nên chiếc yếm xinh đẹp và chàng đã tự tay mang ra tặng cho nàng.
Và chàng lại tự khen cái hành động tỏ tình tha thiết của mình. Khéo thật!
Và cũng từ cái việc tặng yếm này, chúng ta còn bắt gặp một bài ca dao
thật ngộ. Bài ca dao như thế này:
- Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc tím
Em có chồng rồi, em trả yếm cho anh!
- Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc xanh
Yếm em em mặc, yếm chi anh anh đòi!
Đây
là một khúc ca đối đáp giũa một người nam và một người nữ. Chúng ta thử minh
xác xem đây là một cuộc trả yếm hay là một cuộc đòi yếm.Vì đây là một khúc ca
được thể hiện trong một buổi hát đối đáp nào đó nên nội dung đích thực của nó
chỉ là một giả thiết. Tuy nhiên, dù chỉ là một giả thiết thì giả thiết đó cũng
phải phản ảnh được tâm tình chung của quần chúng thì mới được quần chúng lưu
truyền cho tới ngày nay.
Chúng
ta sẽ không bàn đến câu 1 và câu 3, vì 2 câu này chỉ là câu đưa đẩy thuộc thể
phú trong nghệ thuật cấu tạo một bài ca dao. Quả thực nó không liên quan gì đến
câu 2 và câu 4, và vì vậy, dù hoa cúc vàng có nở ra bất kỳ loại hoa gì gì đi
nữa thì nó cũng không làm thay đổi ý nghĩa đích thực của câu 2 và câu 4.
* Có 2 giả thiết:
- Giả thiết 1: Nếu cô gái hát trước thì đây là trường hợp xin trả
yếm. Ta có thể nói xuôi ý câu này như sau: Đây là chiếc yếm anh tặng em khi
chúng mình yêu nhau, nhưng nay vì duyên nợ không thành, bây giờ em đã có chồng,
nên em xin trả chiếc yếm này cho anh . Và chàng trai đã trả lời một cách dịu
dàng: Quả là anh có tặng em chiếc yếm đó, thế nhưng bây giờ em đã mặc nó và vì
vậy bây giờ nó là của em. Nó đâu còn là của anh nữa mà bảo anh đòi!
- Giả thiết 2: Nếu
người con trai hát trước thì đây lại là đòi yếm. Lời người con trai thật cương
quyết: Ngày trước tôi có cho cô một cái yếm. Nay cô đã có chồng cô phải trả lại
cái yếm đó cho tôi. Cô gái đốp chát lại một cách đanh đá: Này, tôi bảo cho mà
biết, yếm tôi đang mặc thì nó phải là yếm của tôi chứ yếm gì của anh mà anh lại
đòi! Vô duyên!
Xét về phương diện tâm lý, đã có can đảm đòi lại cái yếm mà mình đã cho
người mình yêu, dù rằng người yêu của mình đã ôm cầm sang thuyền khác, thì đó
là một hành vi không còn tình nghĩa. Đã không còn tình nghĩa thì giọng điệu
phải gay gắt. Giọng điệu của chàng trai đã gay gắt thì giọng điệu của cô gái
cũng phải chua ngoa cho tương xứng. Cứ xét theo giọng điệu thì giọng điệu của
câu 2 không thể là giọng điệu của một người “đòi nợ” và giọng điệu của câu 4
không thể là giọng điệu của một người “bị đòi nợ”. Chữ “em” và chữ “anh” trong
câu 2 và trong câu 4 nghe hiền lành, tràn trề tình cảm. Thử là giả thiết 2, bài
ca dao phải được chuyển cách xưng hô như sau:
-
Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc tím
Cô
có chồng rồi cô trả yếm cho tôi
-
Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc xanh
Yếm
tôi tôi mặc, yếm chi anh anh đòi!
Chứ không thể là cách xưng hô “anh-em” “em-anh” tình tứ như thế được.
Vả lại, anh con trai nào lại chẳng nhớ nằm lòng câu ca dao này:
Bắc
thang lên hỏi ông trời
Của
chàng cho thiếp liệu đòi được chăng?
Bắc
thang lên hỏi ông trăng
Của
chàng cho thiếp nói năng thế nào?
Cái yếm nó cũng quái ác lắm. Những cô gái mặc những chiếc yếm đào, yếm
hồng, yếm thắm, yếm đỏ... đã làm cho bao chàng trai chết mê chết mệt như ăn
phải bùa mê thuốc lú, không còn biết trời trăng mây nước gì nữa:
Chùa
này chẳng có Bụt ru
Mà
đem chuông khánh treo chùa hồ sen
Thấy
cô yếm đỏ, răng đen
Nam
mô di Phật lại quên mất chùa!
Mà đâu có phải chỉ làm say mê những chàng trai dân dã, những anh đồ nhá
chữ thành hiền, ngay những bậc tu hành mà lòng trần chưa dứt đôi khi cũng bị
mấy cô yếm thắm, yếm đào đưa vào mê lộ:
Ba
cô đội gạo lên chùa
Một
cô yếm thắm bỏ bùa cho sư
Sư
về sư ốm tương tư. . .
Cái
yếm là vật thiết thân của đàn bà con gái, thì cái yếm cũng là vật thân thiết
của giới đàn ông con trai. Gặp cô gái không cần biết tên họ là gì, cứ theo màu
yếm cô nàng đang mặc mà gọi, cô nàng cũng biết là chàng trai đang gọi ai rồi.
Thiệt là kín đáo mà tình tứ biết bao!
Gặp một cô mặc yếm trắng, thế là anh chàng có cớ để chòng ghẹo :
Hỡi
cô yếm trắng lòa lòa
Sao
cô không bảo mẹ già nhuộm thâm?
Ước
gì anh được ở gần
Để
anh nhuộm hộ thấm nhuần công anh!
Sao mà tình tứ quá vậy! Sao mà hiền lành quá vậy! Chỉ xin được ở gần để
nhuộm hộ cái yếm lấy công thôi! Sao anh chàng này lại khôn thế nhỉ? Thế nhưng,
theo Nhất Thanh Vũ Văn Khiếu trong Đất Lề Quê Thói, thì “thực ra, không ai mặc
yếm nhuộm thâm, nhưng chàng trai đã mánh lới nói trái vậy để chòng ghẹo, và để
cô gái dễ có cớ trả lời.”
Cũng lại cái “yếm trắng lòa lòa”, lần này cũng lại bị chọc quê :
Cô
kia yếm trắng lòa lòa
Lại
đây đập đất trồng cà với anh
Bao
giờ cà chín, cà xanh
Anh
cho một quả để dành mớm cơm!
Này đây một anh chàng ngồi trên con dò dọc đang buông lời tình tứ mời
mọc một cô nàng yếm thắm:
Hỡi
cô yếm thắm răng đen
Muốn
lên mạn ngược ngồi thuyền cùng anh!
Này đây một anh chàng lái đò khác đang buông lời chòng ghẹo dớ dẩn:
Thuyền
anh đã cạn lại đầy
Mượn
đôi dải yếm làm dây kéo thuyền
Cái dải yếm chỉ lớn bằng mút đũa con mà đòi “mượn . . . làm dây kéo
thuyền”. Mượn gì mà oái oăm thế! Thế nhưng cô gái cũng không vừa. Cô không từ
chối thẳng thừng sợ làm buồn lòng anh chàng lái đò “tinh nghịch”, cô chỉ hứa
khéo với lời ước ao không bao giờ thành hiện thực:
Ước
gì dải yếm em to
Để
em buộc lấy mũi đò kéo lên
Ước
gì dải yếm em bền
Để
em buộc lấy kéo lên trên bờ!
Này đây một anh chàng buông lời đùa cợt cái kiểu “muốn cho mình rinh
cho người” :
Con
cò lặn lội bờ ao
Hỡi
cô yếm đào lấy chú tôi chăng?
Hay:
Hỡi
cô yếm đỏ lòm lòm
Lại
đây tôi gả thằng còm cho cô . . .
Nhưng cái anh chàng dưới đây mới thật là “tinh nghịch”.
Hỡi
cô yếm thắm đeo bùa
Bác
mẹ có bán anh mua nửa người
Anh
mua từ rốn đến đùi
Từ
bụng đến mặt mặc trời với em!
Vậy
là cái “yếm thắm” dù có đeo bùa cũng không quyến rũ nổi anh chàng “tinh
nghịch”! “Ý tại ngôn ngoại” mà lại!
Này đây một anh chàng đang buông lời chòng ghẹo chua ngoa:
Hỡi
cô mặc yếm hoa tằm
Chồng
cô đi lính cô nằm với ai?
Đây
có thể là một câu hỏi có vẻ “lần khân” nhưng nó lại có thể phản ảnh cả một thực
tế lịch sử chua cay của người phụ nữ Việt Nam trong những thời chinh chiến.
Có những thời kỳ mà người đàn ông phải ở trong quân ngũ suốt cả một quãng đời
trai trẻ “tuổi chưa đến 60 chẳng được về làng cùng cha mẹ vợ con đoàn tụ...”
(Thích Đại Sán - Hải Ngoại Ký Sự)
Có những phụ nữ sống trong khắc khoải chờ chồng thời chinh chiến thì
cũng có những phụ nữ sống buông thả luông tuồng “chính chuyên lấy được chín
chồng, vo viên bỏ lọ gánh gồng đi chơi!...” để rồi bị người thiên hạ mỉa mai
trách móc:
Hỡi
cô yếm thắm bùa đeo
Chồng
cô cô bỏ cô theo chồng người!
Nữ sĩ Hồ Xuân Hương có một bài thơ vịnh “Thiếu nữ ngủ ngày” vẽ ra một
hình ảnh thiệt ngộ : cô thiếu nữ “quá giấc nồng” để gió thổi tụt yếm xuống đến
giữa ngực “yếm đào trễ xuống dưới nương long”phơi bày cả bộ nhũ hoa mát rượi
“đôi gò bồng đảo sương còn ngậm”, khiến cho anh chàng “quân tử dùng dằng đi
chẳng dứt ; đi thì cũng dở, ở không xong!”. Chàng “quân tử” ở đây còn dùng
dằng, lưỡng lự, “tiến thoái lưỡng nan”, chứ chàng trai trong ca dao gặp cảnh
này đã sấn sổ đến ngay không chút e dè.:
Đôi
cô vác gậy chòi đào
Cô
lớn, cô bé, cô nào với ai?
Cô
lớn vuốt bụng thở dài:
Trời
ơi, đất hỡi! Lấy ai đỡ buồn?
Cô
bé mặc yếm hở lườn
Đêm
nằm ngỏ cửa con lươn bò vào!
Gió
nam đánh tốc yếm đào
Anh
nghĩ oản trắng, anh vào thắp nhang
Hai
cô bốn oản rõ ràng
Anh
xin một chiếc, cô nàng không cho!
Rõ
ràng là chàng trai đã giả vờ “trông gà hóa cuốc” để rồi lần khân sấn sổ đến gần
hỏi xin một “phẩm oản” và dĩ nhiên là cô nàng từ chối!
Như đã được mô tả, chiếc yếm có lớn lắm cũng chỉ bằng hai bàn tay xòe
là cùng. Ấy vậy mà, đã cò chàng trai mơ ước được đắp chiếc yếm của người tình
và chàng nghĩ nó sẽ ấm, ấm lắm, không chiếu chăn nào có thể sánh nổi:
Đêm
nằm đắp chục chiếc chăn
Làm
sao sánh được ấm bằng yếm em!
Đắp chiếc yếm mà thấy được hơi ấm đã là lạ, nhưng không lạ bằng chàng
trai sau đây. Óc tưởng tượng cuả chàng đã vẽ nên một hình ảnh tuyệt diệu mà
chúng ta có thể nghĩ rằng chỉ có tình yêu mới có thể cho chàng được sức tưởng
tượng dồi dào đến mức ấy:
Trời
mưa trời gió kìn kìn
Đắp
đôi dải yếm hơn nghìn chăn bông!
Trời
ạ! Đắp đôi dải yếm! Phải chăng hơi hướm của người tình đã chuyền hơi ấm vào đôi
dải yếm đa tình để tạo cho nó thành một lò sưởi?
Đôi dải yếm tuyệt diệu làm vậy nên chàng trai đã có một ước mơ thật kỳ
lạ, đó là giấc mơ hóa kiếp của chàng. Tương truyền Nguyễn Công Trứ đã có lần
ước mơ hóa kiếp thành “cây thông”:
Kiếp
sau xin chớ làm người
Làm
cây thông đứng giữa trời mà reo
Sườn
trời vách đá cheo leo
Ai
mà chịu rét thì trèo với thông
Ông là một nhà tướng, ông lại là một nhà thơ, ông muốn tiếng thơ của
ông cùng đất trời vang vọng, còn chàng trai trẻ đa tình của chúng ta thì có một
ước vọng “đa tình” một cách lạ kỳ. Chàng muốn biến thành cái dải yếm để mãi mãi
được quấn quýt bên cạnh người tình:
Kiếp
sau đừng hóa ra người
Hóa
ra dải yếm buộc người tình nhân!
Trong lúc chàng trai ước hóa ra dải yếm để được “buộc người tình nhân”,
thì cái ước vọng của cô gái - cái ước vọng mãnh liệt muốn được giao hòa, muốn
được cảm thông - đã biến cái dải yếm mong manh thành chiếc cầu bất hủ của tình
ái để đón người tình:
Ước
gì sông rộng một gang
Bắc
cầu dải yếm cho chàng sang chơi!
Quả
là người ta không thể lấy cái kích thước bình thường để đo lường rồi phê phán
hình ảnh tuyệt diệu trong câu ca dao này mà người ta phải lấy kích thước của
“khát vọng tình yêu” để nhận chân một tấm chân tình.
Nếu có một chàng trai nói lên giấc mơ “đa tình” của mình thì lại có một
cô gái nói lên giấc mơ “tinh nghịch” thật oái oăm :
Ước
gì dải yếm em dài
Để
em buộc lấy những hai anh chàng!
Bởi cô nàng ao ước “buộc lấy những hai anh chàng” nên cô nàng đã bị
thiên hạ mỉa mai:
Lả
lơi cho rách yếm ra
Về
nhà dối mẹ yếm thông hoa không bền!
Hình thức của cái yếm cũng là biểu tượng về đời sống thường nhật của
người phụ nữ Việt Nam.
Khi còn son trẻ, người phụ nữ còn nghĩ đến cách ăn mặc, còn nghĩ đến việc giữ
gìn sắc đẹp:
Tấm yếm đào sao em khéo giữ màu
Răng đen rưng rức, mái tóc đầu em hãy còn xanh.
Hay:
Con gái đang thì đã nên con gái
Cái áo em mặc chải chải hoa hồng
Trong yếm đại hồng chuỗi xe con trám. . .
Nhưng khi đã có gia thất, trong đời sống khổ cực hằng ngày, họ thường
hoài niệm về thời con gái còn sống dưới sự đùm bọc, yêu chiều của mẹ cha. Với
họ, đây quả là một thời vàng son:
Khi
xưa em ở với cha
Một
năm chín yếm xót xa trong lòng
Từ
khi em về nhà chồng
Chín
năm một yếm, em lộn trong ra ngoài!
Khi đã có chồng, người phụ nữ Việt Nam thường ít khi nghĩ riêng về
mình mà họ dồn tất cả cho chồng cho con, đúng với quan niệm “có chồng gánh vác
giang sơn nhà chồng!”. Họ không còn nghĩ về bản thân mình nữa:
Chửa chồng nón thúng quai thao
Chồng rồi, nón rách quai nào thì quai.
Chửa chồng yếm thắm đeo hoa
Chồng rồi hai vú bỏ ra tày giành!
Và nhất nữa khi đã có con, càng có nhiều con, .đời sống của họ càng
ngày càng vất vả hơn và bản thân họ trông cũng thật thảm não hơn:
Gái
một con trông mòn con mắt
Gái
hai con con mắt liếc ngang
Ba
con cổ ngẵng, răng vàng
Bốn
con quần áo đi ngang khét mù
Năm
con tóc rối tổ cu
Sáu
con yếm tụt, váy dù vặn ngang.
Lịch sử
Yếm
xuất hiện từ bao giờ không ai rõ, chỉ biết rằng nó đã có mặt trong cuộc sống
của người dân Việt từ rất xa xưa. Nó được mặc bởi phụ nữ Việt ở mọi tầng lớp
giai cấp xã hội, từ các tôn nữ công chúa
nơi thâm cung, các phu nhân tiểu thư của
những gia đình quý tộc,
đến những người phụ nữ bình dân tần
tảo, vất vả sớm hôm để nuôi chồng, nuôi con.
Một
số nhà nghiên cứu cho rằng chiếc yếm được ra đời là để tôn lên cái lưng ong vốn được xem là một nét đẹp của người phụ nữ trong văn hóa
Việt Nam.
Theo quan niệm truyền thống
của người Việt, một cô gái đẹp là
phải có cái lưng được thắt đáy nhỏ nhắn như cái lưng ong. Người Việt xưa cho
rằng những cô gái với cái lưng ong không chỉ mang một dáng hình đẹp mà còn có
đầy đủ tất cả những đức hạnh của một người vợ, người mẹ. Chúng ta có câu ca
dao:
Đàn
bà thắt đáy lưng ong
Đã
khéo chiều chồng lại khéo nuôi con.
Cái yếm của người phụ nữ Việt Nam có tự bao giờ không thấy sử
sách ghi lại. Trong tác phẩm Việt Nam Văn Hóa Sử Cương của học giả Đào Duy Anh
có đoạn ghi: “Theo sách Sử Ký chép thì người Văn Lang xưa, tức là tổ tiên ta,
mặc áo gài về bên tả (tả nhiệm). Sử lại chép rằng ở thế kỷ thứ nhất, Nhâm Diên
dạy cho dân quận Cửu Chân dùng kiểu quần áo theo người Tàu.” (trang 172).
- Sử Ký là một sử phẩm bất hủ của nền văn học Trung quốc cổ đại. Tác
giả là Tư Mã Thiên, một người sinh sống trong khoảng thế kỷ thứ II trước Tây
Lịch.
- Văn Lang là quốc hiệu của nước ta từ thuở các vua Hùng họ Hồng Bàng
trị vì tức là từ năm Nhâm Tuất (2789) đến năm Quý Mão (258) trước Tây lịch.
Căn cứ vào sự kiện được ghi trong Sử Ký và các niên biểu nêu trên thì
từ hơn hai ngàn năm về trước, dân Việt ta đã biết mặc áo gài nút về phía bên
trái (tả nhiệm), đến khi Nhâm Diên cai trị đất Cửu Chân mới bắt dân Việt ăn mặc
theo kiểu người Tàu tức là gài nút về phía tay phải (hữu nhiệm).
Trước khi biết mặc áo gài nút về phía tray trái (tả nhiệm), giống như
nhiều dân tộc sơ khai khác, người Việt sơ khai cũng đã dùng lá cây, vỏ cây hoặc
da thú làm vật che thân. Họ chỉ che toàn thân khi trời giá rét. Khi trời nóng
bức hoặc khi làm lụng, chắc hẳn họ chỉ che những bộ phận cần phải che kín của
cơ thể (hạ bộ của phái nam, hạ bộ và nhũ hoa của phái nữ). Đến khi biết dệt vải
để dùng, họ thay thế lá cây, vỏ cây hay da thú bằng những mảnh vải. Và chiếc
yếm ra đời. Chiếc yếm phải ra đời trước cái áo “tả nhiệm”, chí ít cũng phải
đồng thời với cái áo ấy. Vậy là cái yếm đã là vật thân thiết của người phụ nữ
Việt Nam
trên hai ngàn năm nay. Những chiếc yếm trắng, yếm nâu, yếm đào, yếm thắm . . .
những chiếc yếm vải, yếm trúc bâu, yếm vóc, yếm nhiễu . . . đã quấn quýt với
người phụ nữ Việt trên hai ngàn năm đó bỗng một hôm bị cái “soutien” của người
phương Tây tranh giành mất địa vị. Chiếc yếm thủy chung gợi cảm đã phải từ tốn
âm thầm rút lui vào bóng tối nhường chỗ cho chiếc “soutien” ôm ấp bộ ngực căng
tròn nõn nà của người phụ nữ Việt Nam cho đến một ngày người ta không còn nhắc
nhở đến cái yếm nữa. Ngày nay có nhiều phụ nữ Việt Nam không còn có thể hình dung ra
hình dáng của cái yếm. Và đáng tiếc biết bao nhiêu, những chàng trai Việt không
còn đêm đêm nằm mơ:
Kiếp
sau đừng hóa ra người,
Hóa
ra dải yếm buộc người tình nhân!
Hình
dạng của chiếc yếm có thể là đã được thay đổi theo thời gian nhưng nó lần đầu
tiên được ghi nhận vào thế kỷ 12 dưới triều Lý.
Vào
thế kỷ 18-19, chiếc yếm có hình vuông vắt chéo trước ngực, góc trên khoét làm
cổ, hai đầu đính mẩu dây để cột ra sau gáy. Nếu cổ khoét tròn gọi là yếm cổ
xây, cổ nhọn đầu hình chữ V gọi là yếm cỗ xe, đáy chữ V mà sẻ sâu xuống gọi là
yếm cổ nhạn. Hai góc hai bên có dây để buộc ra sau lưng 1
Bước sang thế kỷ 20, áo yếm càng được sử dụng phổ
biến với nhiều kiểu dáng và mẫu mã phong phú. Dành cho người lao động có yếm
màu nâu dệt bằng vải thô. Người lớn tuổi mặc yếm màu thẫm. Con gái nhà gia giáo
mặc yếm nhiều màu, trang nhã và kín đáo. Loại yếm "ỡm ờ", màu sặc sỡ,
cổ cắm sâu trễ quá bờ ngực, "thách thức", chỉ dân "trời ơi"
dạng Thị Mầu mới mặc. Thời kỳ "cách tân" này, cổ yếm thường được
"dằn" thêm ba đường chỉ để "bảo hiểm" hoặc may viền lằn
vải, thêu hoa cặp theo đường biên cổ.
Một loại yếm hay được các cô gái sử dụng nữa là
"yếm đeo bùa". Gọi là yếm đeo bùa bởi người mặc chúng thường để xạ
hương vào trong túi vải nhỏ đeo cạnh yếm, đó chính là thứ vũ khí vô cùng lợi
hại của các cô gái thời xưa... Không chỉ vậy, chiếc yếm còn làm nên những câu
chuyện tình yêu vô cùng độc đáo. Xưa, các cô gái khi hẹn hò người mình yêu
thường "ém" một miếng trầu trong chiếc yếm của mình, dân gian gọi đó
là "khẩu trầu dải yếm". Có lẽ không có thứ trầu nào "linh
thiêng" hơn loại trầu dải yếm này.
Để trở thành "quốc phục" của quý bà quý cô
trước khi chiếc áo dài ra đời, đi kèm với cái yếm là chiếc áo cánh khoác ngoài
không cài cúc. Khi ra ngoài bên ngoài chiếc yếm phải có thêm chiếc áo dài,
chiếc váy lưỡi trai bằng lĩnh, dải lụa đào hoặc màu mỡ gà thắt ngang lưng, cái
xà tích bạc lủng lẳng, bộ "độ nghề" ăn trầu bên phía cạnh sườn, chân
mang dép. Chưa hết, phục trang ra đường còn phải kể đến là hai chiếc khăn đội
đầu: khăn nhiễu (quấn bên trong) và khăn mỏ quạ (trùm bên ngoài). Nếu đúng dịp
hội hè đình đám các cô gái thường trang bị thêm cho mình chiếc nón quai thao,
và tóc thì vấn cao cài lược.
Suốt chiều dài
lịch sử, cái yếm đã đi vào "giấc mơ" của biết bao thế hệ mày râu:
Trời
mưa lấy yếm mà che
Có
anh đứng gác còn e nỗi gì ?
Đáp lại, các nàng cũng chẳng vừa:
Ước
gì sông hẹp tày gang
Bắc
cầu dải yếm cho chàng sang chơi.
Màu
sắc yếm nói lên khá nhiều về người chủ của nó: Người lao động đồng ruộng mặc
yếm màu nâu bằng vải thô. Con gái nhà gia giáo thì mặc yếm nhiều màu trang nhã
và kín đáo. Người lớn tuổi mặc yếm màu thẫm. Kiểu yếm màu sặc sỡ, cổ khoét sâu
thì ít người dùng, chỉ những người như kiểu thị Màu mới
dám xài.
Cái yếm là thứ
trang phục vừa kín đáo, vừa... ỡm ờ một cách nghệ thuật, độc đáo của Việt Nam.
Chả thế mà Thị Mầu mới nói với chàng nô:
Gió
xuân tốc dải yếm đào
Anh
trông thấy oản sao không vào thắp hương
Yếm
thường được dùng kết hợp với áo cánh
hoặc áo dài, mặc với nón quai thao, khăn nhiễu và khăn mỏ quạ.
Yếm trong thơ văn Việt Nam
Hình
ảnh chiếc yếm đã đi sâu vào ca dao Việt Nam.
Nó đã trở thành một chủ đề quán xuyến quen thuộc, tạo nên sự lãng mạn
và đáng yêu cho những câu thơ ca tình tứ của dân tộc.
Từ những câu tỏ tình của các chàng trai
trong các cuộc gặp gỡ
Hỡi
cô mặc áo yếm hồng
Đi
trong đám hội có chồng hay chưa?...
Cô
kia yếm trắng lòa lòa
Lại
đây đập đất trồng cà với anh.
Bao
giờ cà chín cà xanh
Anh
cho một quả để dành mớm con.
Cho đến câu nhớ nhung, mong đợi của kẻ xa
quê
Mình
về mình có nhớ chăng
Ta
về như lạt buộc khăn nhớ mình.
Ta
về ta cũng nhớ mình
Nhớ
yếm mình mặc, nhớ tình mình trao
Rồi chiếc yếm lại trở thành vật trao tình
của các cô gái trẻ. Yêu anh thì mới trao yếm cho anh. Khi anh hỏi mượn em chiếc
yếm là ý anh muốn hỏi em có yêu anh không, có đồng ý theo anh không.
Thuyền
anh ngược thác lên đây
Mượn
đôi dải yếm làm dây kéo thuyền.
Ở
gần mà chẳng sang chơi
Để
em ngắt ngọn mồng tơi bắc cầu.
Mồng
tơi chẳng bắc được đâu
Em
cởi dải yếm bắc cầu anh sang
Dải
yếm thì làm sao mà dùng dây kéo thuyền được, làm sao mà bắc cầu được? Nhưng đấy
chỉ là ẩn ý thôi, cái anh thực sự muốn là chân tình của em. Em phải dùng
"yếm" làm dây bắc cầu thì anh mới sang.
Rồi dải yếm lại trở thành một biểu tượng
cho tình yêu giữa đôi trai gái
Trời
mưa trời gió kìn kìn
Đắp
đôi dải yếm hơn nghìn chăn bông
Bên
ngoài mưa gió lạnh rét, đôi uyên ương dùng đôi dải yếm để đắp và vẫn thấy ấm áp
hơn nằm trong nghìn lớp chăn bông. Đó không phải là vì dải yếm có sức cách lạnh
tốt, mà là vì dải yếm là biểu tượng cho tình yêu của lứa đôi, tình yêu ấy có
thể làm ấm lòng người giữa tiết trời giá rét.
Đối với những đôi trai gái không được nên
duyên nên phận vợ chồng như mong ước, chiếc yếm lại hiện lên trong câu thơ xót
thương tiếc nuối của các chàng trai.
Kiếp
sau đừng hóa ra người
Hóa
ra dải yếm buộc người tình nhân
Tác giả bài "Chùa Hương" khi tả
một cô thiếu nữ đẹp đang lên chùa đã viết
"Em
đeo giải yếm đào
Quần
lĩnh áo the mới
Tay cầm nón quai thao".
Vẫn nguồn cảm hứng từ chiếc áo yếm, nhà
thơ Hoàng Cầm đã viết nên khúc "Hội
Yếm Bay"
"Ngất
núi ô kìa anh vỗ nhịp
Bay
cờ triệu yếm ríu ran ca
Ngũ
sắc chen nhau cầu lễ hội
Nuột
nà cởi bỏ áo hoa khôi"
Còn nhà thơ Nguyễn Bính khi bày tỏ sự tiếc
nuối đối với cô em thôn nữ của ông đã viết
"Nào
đâu chiếc yếm lụa đào.
Chiếc
khăn lưng đũi nhuộm hồi sang xuân?..."
Yếm, đã đẹp, lại còn lôi cuốn ở nét vừa
kín vừa hở. Xem Hồ Xuân Hương tả
cô gái sau thì rõ:
Lược
trúc lỏng cài trên mái tóc
Yếm
đào trễ xuống dưới nương long
Ðôi
gò Bồng đảo sương còn ngậm
Một
lạch Đào nguyên suối chửa thông
Yếm thay đổi theo thời gian
Cuộc
cách mạng yếm xảy ra vào thế 20 khi các kiểu áo Tây phương xâm nhập vào Việt Nam
với sự ra đời của rất nhiều kiểu yếm và áo ngực mới
lạ.
Trang
phục phương tây du nhập vào có tính tiện dụng hơn hẳn nên Yếm không còn được sử
dụng rộng rãi nữa, yếm thường chỉ được dùng cùng với các trang phục cổ trong
các dịp lễ hội truyền thống.
Ngày
nay chiếc yếm đã được cải tiến gọi là áo yếm để dùng cho các em gái mới lớn. Áo
yếm dùng mặc trong có hai dây đeo lên vai thay vì trước đây chiếc yếm có hai
dây buộc quanh cổ và hai dây bên buộc ngang lưng.
Một
số kiểu áo dạng yếm cải biên cũng được dùng làm trang phục mặc ngoài khi trưng
diện, nhưng số người sử dụng hiện nay rất hiếm hoi vì áo loại này không kín đáo
phù hợp với gia phong truyền thống của người Việt
Xem thêm
·
Nịt ngực
Tham khảo
Sưu tầm từ nhiều
nguồn khác nhau
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét