Bùi Giáng (1926-1998)
Nhà thơ, dịch giả và
nghiên cứu văn học của Việt Nam,
ông nổi tiếng từ thập niên 1960 với tập Mưa nguồn. Ông còn có các bút danh
khác: Bán Dùi, Bùi Giàng Dúi.
- Ông sinh ngày
17/12/1926 tại làng Thanh Châu thuộc xã Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng
Nam. Bố của Bùi Giáng là ông Bùi Thuyên, thuộc đời thứ 16 của dòng họ Bùi ở
Quảng Nam.
Do người vợ cả qua đời sớm nên cha của ông lấy người vợ kế là bà Huỳnh Thị
Kiền. Bùi Giáng là con thứ hai của Bùi Thuyên với Huỳnh Thị Kiền nhưng là con
thứ 5 nếu tính tất cả các anh em. Khi vào Sài Gòn, ông được gọi theo cách gọi
miền Nam
là Sáu Giáng.
- Sau khi học xong bậc
tiểu học ở Trường Bảo An tại huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, Bùi Giáng được gia
đình cho ra Huế tiếp tục học ở Trường Trung học Thuận Hóa, đang học thì thế
chiến thứ hai nổ ra, Nhật hất cẳng Pháp, rồi Cách mạng Tháng Tám thành công.
Nhưng sau đó ông cũng kịp đậu bằng Thành Chung.
- Năm 1944, Bùi Giáng
cưới vợ năm 18 tuổi, vợ ông là bà Phạm Thị Ninh nổi tiếng xinh đẹp, nhưng chỉ
vài năm sau, bà bị bệnh, sinh non và cả 2 mẹ con cùng chết. Nhiều người cho
rằng đây là 1 trong những lý do khiến Bùi Giáng bị điên từ lúc trẻ. Đó là lý do
để trong thơ của ông sau này thường xuyên nhắc đến sự mất mát, sự chia ly, một
hình bóng cũ:
"Có hàng
cây đứng ngóng thu
Em đi mất hút
như mù sa bay;
hay những dòng thơ trên bia mộ của Bùi Giáng:
Đùa với gió, rỡn với vân
Một mình nhớ mãi
gái trần gian xa
Sương buổi sớm, nắng chiều tà
Trăm năm hồng lệ có là bao nhiêu
- Rồi Bùi Giáng theo
kháng chiến. Năm 1950, khi có kỳ thi tú tài đặc biệt do Liên khu V tổ chức, Bùi
Giáng dự thi và đậu Tú tài 2 văn chương. Ông qua Liên khu IV, tới Hà Tĩnh, để
tiếp tục vào học đại học bằng cách đi bộ theo đường mòn trên núi hơn một tháng
rưỡi trời. Nhưng khi đến nơi, không hiểu sao ngay trong ngày khai giảng, Bùi Giáng
đã quyết định bỏ học để quay ngược trở về Quảng Nam rồi theo chân đàn bò rong ruổi
khắp các vùng đồi núi 2 năm.
- Tháng 5-1952, Bùi Giáng
ra Huế thi lấy bằng tú tài để có thể vào Sài Gòn theo học ĐH. Nhưng một lần nữa
ông lại bỏ học khi đọc danh sách các giáo sư giảng dạy ở ĐH Văn khoa. Sau sự cố
này, Bùi Giáng không bao giờ đi học nữa.
- Rồi Bùi Giáng chuyên
tâm vào việc nghiên cứu, viết sách và sáng tác thơ văn. Những người thân cận
cho biết ông đã về quê bán tất cả ruộng vườn được thừa kế để lấy tiền in sách.
- Từ năm 1957, ông lần
lượt cho ra đời một loạt sách giới thiệu về văn học Việt Nam như Truyện Kiều,
Lục Vân Tiên, Chinh phụ ngâm...Ông nổi tiếng bởi tốc độ sáng tác nhanh: tập thơ
Mười hai con mắt được ông sáng tác chỉ trong một đêm Noel năm 1992.
- Từ năm 1962, Bùi Giáng
liên tục cho ra đời nhiều đầu sách. Mỗi năm đều đều vài ba cuốn. Ông là một tác
giả có tác phẩm in ra đứng vào hàng kỷ lục ở miền Nam Việt Nam trước 1975.
Sách của ông có thể chất thành chồng cao cả mét, thơ thì phải kể bằng đơn vị
nghìn bài.
- Năm 1969, tất cả sách
vở cùng với nhà cửa của ông bị quân Giải Phóng thiêu trụi. Ông bị sốc nặng, từ
đó trở đi ông là bệnh nhân quen thuộc của viện dưỡng trí Biên Hòa.
- Sau năm 1975, ông không
bị đi học tập cải tạo như nhiều văn sĩ miền Nam khác vì ông bị mắc bệnh tâm
thần.
- Từ 1975 trở đi ông vẫn
tiếp tục sáng tác rất nhiều thơ, nhưng thời gian này ông có biểu hiện bệnh tâm
thần nặng. Ông thường rong chơi nghịch ngợm ngoài đường với bộ đồ rách rưới, dơ
dáy, nhiều lần bị công an bắt vì gây rối trật tự, cản trở giao thông.
- Tháng 10 năm 1998,
trong một lần đi chơi ông bị té làm chấn thương sọ não. Sau khi hỏi ý kiến của
nghệ sĩ Kim Cương*), bệnh viện chợ Rẫy quyết định mổ cho ông, song ông đã qua
đời vào ngày 7-10-1998.
Ngoài người vợ đầu, Bùi
Giáng cũng có những đối tượng khác để yêu, để làm thơ, đặc biệt sâu đậm nhất là
mối tình đơn phương nổi tiếng giành cho nghệ sĩ Kim Cương, để lại nhiều giai
thoại.
Người đời nói về ông
- Có rất nhiều những nhà
trí thức triết gia, giáo sư và những nhà thơ, văn Việt Nam viết rất nhiều cõi
văn chương tuyệt tác của thi sĩ Bùi Giáng, đều những khám phá, tán dương, ca
ngợi một cách chân tình, trung thực. Trong thời gian gần đây có nhiều bằng hữu,
đa số họ không ở trong giới sinh hoạt văn học nghệ thuật, vì yêu mến con người
siêu lãng tử Bùi Giáng, lẫn thiên tài độc đáo của thi sĩ Bùi Giáng nên đã kể
lại những giai thoại buồn vui đầy châm biếm, khí khái, rất tỉnh táo... của nhà
thơ mà đa số quần chúng miền Nam một thời yêu mến. (Thái Tú Hạp)
- Bùi Giáng, không chỉ là
nhà thơ, mà đi xa hơn, ông chính là hiện thân của một "đạo thơ", một
"thi sĩ sinh ra giữa cỏ cây và sẽ chết đi giữa cỏ cây ly kỳ gây
cấn"...
Sự nghiệp của Bùi Giáng
tỏa rộng qua nhiều lĩnh vực, từ thơ, nghiên cứu phê bình, bình giảng, làm báo
và dịch thuật. Nhưng có thể khẳng định thơ đã "can thiệp", xuyên suốt
và xuyên thấu qua hết mọi địa hạt của ông. Nói cách khác, cái lõi của vấn đề
Bùi Giáng là "lõi thơ". Không những Bùi Giáng dịch hay như làm thơ
(tiêu biểu là các cuốn Ngộ nhận, Hòa âm của điền dã, Hoàng tử bé)... mà ông
viết nghiên cứu cũng dào dạt mê cuồng như làm thơ (Tư tưởng hiện đại)... Ông
lấy "thi tưởng" để "quán" hết mọi lẽ trong hành động. Vì
thế mới có những nhận định về Bùi Giáng theo kiểu như của nhà thơ Thanh Tâm
Tuyền, đó là "ngủ ra thơ, thở ra thơ, đi ra thơ, đứng ra thơ".
Gọi Bùi Giáng là
"người thơ" tôi muốn xác tín hai điều: Bản chất thuần Việt của thi
ca, tác phẩm ông và tính cách dân dã, bụi bặm, "bùi bàng giúi",
"búi bàng giùi", "vân mồng", "đười ươi thi sĩ"
(1) gần gũi với quần chúng của ông. Trong lịch sử thơ ca Việt Nam hiện đại chưa từng sản sinh ra
một trường hợp nào lạ lùng và độc đáo như vậy.
... Ở thơ Bùi Giáng cũng là thái độ về lẽ biến
hóa, vô thường đó. Ông là người kết hợp được những lý lẽ uyên áo, trầm mặc của
tinh thần phương Đông với triết lý thực nghiệm, thực dụng của phương Tây nên
càng về cuối đời, thơ Bùi Giáng càng có những cuộc đảo lộn dữ dội về ngôn ngữ,
lật nhào cả những hệ thống quan điểm thơ mà gần như cả một đời ông xây dựng. (Nguyễn Hữu Hồng Minh)
Về bản thân mình, Bùi
Giáng tự họa: “Nhe răng cười trong
bóng tối... không bao giờ bắt chuồn chuồn mà cứ bảo rằng mình luôn luôn bắt
chuồn chuồn... Không thiết chi đọc sách mà vẫn cặm cụi đọc sách hoài... Chán
chường thi ca mà cứ làm thơ hoài... Chuốc sầu vạn đại thì bảo rằng mua vui cũng
được một vài trống canh”.
Và đó là kẻ:
Kể từ khởi sự
mọc răng
Đến bây giờ
vẫn thường hằng chiêm bao.
Rồi:
Sài Gòn Chợ
Lớn rong chơi,
Đi lên đi
xuống đã đời du côn!
Nhưng,
có lẽ lời tự giới thiệu bằng thơ sau đây của ông mới là “tuyệt diệu hảo từ”:
Hỏi tên? Rằng
biển xanh dâu,
Hỏi quê? Rằng
mộng ban đầu rất xa,
Gọi tên là
một hai ba,
Ðếm là diệu
tưởng, đo là nghi tâm.
Bùi Giáng tự ghi “tiểu sử”
Trong
một tài liệu, Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng cho biết: Trưa ngày mùng 10 tháng 11
năm 1993, tại chùa Pháp Vân, Gia Định, Sài Gòn, Đại Lão Thi Sĩ Bùi Giáng đã tự
tay chép vào cuốn sổ tay gửi lại chùa một bản “Tiểu Sử Tự Thuật” theo kiểu rất
“Đười Ươi Thi Sĩ”, xin trích gửi bạn đọc vài mục ngộ nghĩnh như sau:
- 1926: được bà
mẹ đẻ ra đời.
- 1928: bị té bể
trán, vết sẹo còn nguyên kỷ niệm hai năm trời chết đi sống lại.
- 1933: bắt đầu
đi học a, b, c...
- 1936: học
trường Bảo An với thầy Lê Trí Viễn.
- 1939: ra Huế
học tư thục với những thầy Cao Xuân Huy, Trần Đình Đàn, Hoài Thanh Nguyễn Đức
Nguyên, Đào Duy Anh, vân vân..
- 1940: về Quảng
Nam
chăn bò.
- 1942: trở ra
Huế, vì nhớ nhung gái Huế.
- 1949: nhập ngũ
bộ đội công binh. Hai năm sau giải ngũ.
- 1952: vào Sài
gòn
- 1965: nhà cháy
mất trụi bản thảo.
In vội vàng Sa
Mạc Phát Tiết (An Tiêm)
- 1969: bắt đầu
điên rực rỡ.
- 1970:
1. Lang Thang Du Hành Lục Tỉnh
2. Gái Châu Đốc Thương yêu và Gái Long Xuyên
Yêu dấu.
3. Gái Chợ Lớn Khiến bị bịnh lậu (bịnh hoa
liễu).
- 1971 - 75 - 93
- Điên rồ lừng lẫy chết đi sống lại vẻ vang.
- Rong chơi như hài nhi (con nít).
Bình
sinh mộng tưởng vấp phải niềm thương yêu của Kim Cương Nương Tử, Hà Thanh Cô
Nương và Mẫu Thân Phùng Khánh (tức Trí Hải Ni Cô).
- Do đâu mà ra được như
thế?
-
Đáp: Có lẽ đầu tiên kỳ tuyệt là do ân nghĩa bốn bề thiên hạ đi về tập họp tại
Già Lam, Vạn Hạnh và Long Huê và Tịnh Xá Trung Tâm và Pháp Vân và xiết bao Chùa
Chiền Miền Nam nước Việt, không biết nói sao cho hết…
Sách viết về Bùi Giáng
- Tưởng
nhớ thi sĩ Bùi Giáng: Kỷ niệm một năm ngày mất Bùi Giáng (Bùi Văn Nam Sơn,
Nhuận Quốc, Trần Đới, NXB Trẻ, 1999)
-
Bùi Giáng – thi sĩ kì dị (Trần Đình Thu, NXB Trẻ, 2005)
-
Bùi Giáng trong tôi (Hồ Công Khanh, NXB Văn nghệ Tp Hồ Chí Minh, 2005)
-
Bùi Giáng - Qua 99 giai thoại (Huyền Ly st,
NXB Lao động, 2008)
-
Bùi Giáng trong cõi người ta (Đoàn Tử Huyến,
NXB Lao động, 2008)
Bùi Giáng & Thơ
-
Bùi Giáng - Nhà thơ cuối cùng của thế kỷ 20 (Nguyễn
Hữu Hồng Minh)
-
Bùi
Giáng - thơ và người thơ (Nguyễn Hữu Hồng Minh)
-
Hiện tượng Bùi Giáng (Thụy Khuê)
-
Bùi Giáng - một hiện tượng kỳ lạ (Phỏng vấn
Đoàn Tử Huyến, Người Lao Động)
-
Di cảo thơ đồ sộ (Thanh Niên)
-
Bùi Giáng: Thơ là hạnh phúc (Đặng Tiến, Thanh
Niên)
-
Bùi Giáng, nhà thơ của ngày tháng Ngao du
(Cung Tích Biền)
-
Thử phác họa đôi nét về cõi thơ Bùi Giáng
(Huỳnh Hữu Ủy)
-
Bùi Giáng: Một vùng đất hẹp và một thế giới
(Nguyễn Hoàng Vân)
-
Bùi Giáng bốn mùa (Phạm Thiên Thư)
-
Nguyên khởi về cõi tinh mật Bùi Giáng (Khiêm Lê
Trung)
-
Bùi Giáng – thi sĩ kỳ dị (Huỳnh Ngọc Chiến)
-
Bùi Giáng trong “cõi người ta” (Ý Nhi)
-
Bùi Giáng càng điên càng tỉnh, càng già càng lãng mạn (Nguyễn
Hưng Quốc)
-
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và mầu hoa
trên ngàn (Bùi Vĩnh Phúc)
Cuộc đời Bùi Giáng
-
Bùi Giáng trong cõi người ta (Đất Việt)
-
Tưởng Niệm thi sĩ Bùi Giáng (1926-1998)
-
Bùi Giáng vẽ tranh (Thanh Niên)
Thơ đã xuất bản
-
Mưa nguồn (1962)
-
Lá hoa cồn (1963)
-
Màu hoa trên ngàn (1963)
-
Mười hai con mắt (1964)
-
Ngàn thu rớt hột(1967)
-
Rong rêu (1972)
-
Thơ vô tận vui (1987)
-
Mùa màng tháng tư (1987)
-
Mùi Hương Xuân Sắc (1987)
-
Đêm ngắm trăng (1997)
Dịch thuật
-
Trăng châu thổ
-
Hoàng Tử Bé
-
Khung cửa hẹp
-
Hòa âm điền dã
-
Ngộ nhận
-
Cõi người ta
-
Nhà sư vướng luỵ
Nghiên cứu
-
Tư tưởng hiện đại (1962)
-
Martin Heidgger và tư tưởng hiện đại (1963)
-
Đi vào cõi thơ
-
Thi ca tư tưởng
-
Một vài nhận xét về bà huyện Thanh Quan
-
Một vài nhận xét về Lục Vân Tiên, Chinh Phụ Ngâm, quan Âm Thị Kính
-
Vài nhận xét về truyện Kiều và truyện Phan Trần
-
Sa mạc phát tiết (1965)
-
Sa mạc trường ca (1965)
-
Bài ca quần đảo (1969)
-
Mùa thu trong thi ca
-
Ngày tháng ngao du
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét