Thơ Du Tử Lê Và Tuổi Trẻ Chúng Tôi
Vào cái tuổi mới lớn, khi
tình yêu vừa chớm nở, khi lòng say mê bồng bột của tuổi trẻ còn ngây ngất, tôi
mê đọc thơ lắm. Tôi yêu cái ngạo nghễ lãng mạn trong thơ Vũ Hoàng Chương; yêu
cái không khí lãng đãng trong thơ Xuân Diệu; hay cái chân chất trong thơ Hồ
Dzếnh. Nhưng khi đọc những lời thơ của Du Tử Lê, chúng đã có sức thu hút tôi kỳ
lạ. Càng đọc nhiều thơ Du Tử Lê, tôi càng phát hiện trong thơ ông có nhiều câu
thật lạ, thật hay. Trong bài “Khúc tháng chín” có câu:
Này tháng Chín: Nghe không lời nói nhỏ
Hoàng hôn em: Tôi gửi một que diêm.
Khi đọc câu thơ trên cho
các bạn học cùng nghe, có bạn phát biểu:
“Có lẽ trong câu ‘hoàng
hôn em: tôi gửi một que diêm,’ thi sĩ muốn gửi tới người tình hoàng hôn của ông
một que diêm.”
Một bạn khác bổ sung
rằng, nếu thế thì phải có dấu slash (/) và thêm một...bình xăng...
Hy vọng nhà thơ Du tử Lê
sẽ có thời gian cho các bạn tôi lời giải đáp về câu thơ thật hay nhưng đầy thắc
mắc kia.
“...Có lẽ không một nhà thơ nào được tuổi trẻ đón
nhận rất nồng nhiệt và đầy yêu mến trân trọng như nhà thơ Du Tử Lê. Bởi lẽ thơ
ông luôn là vị Sứ Giả mang thông điệp tình yêu đến với họ. Ông cũng là nhà thơ
duy nhất có nhiều tác phẩm được giảng dạy cho sinh viên ban cao học, môn xã hội
học và văn học lưu vong ở một số trường đại học Hoa Kỳ và Âu Châu. Thơ Du Tử Lê
đã được rất nhiều nhạc sĩ phổ thành nhạc như Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Từ
Công Phụng, Anh Bằng, Việt Dũng, Trần Duy Đức, Đăng Khánh, Phạm Anh Dũng, Hoàng
Thanh Tâm, Phạm gia Cổn, Võ Tá Hân, Trầm Tử Thiêng, Khang Thụy, Khúc Lan, Song
Ngọc, Mai Trường, Lê Văn Thành, Vũ Thành An, vân vân... Và những nhạc phẩm ấy,
đặc biệt là giới trẻ yêu mến đặc biệt...”
Tôi xin mượn câu nói của
nhà văn Khánh Trường, viết về Du Tử Lê:
“Du Tử Lê có một tâm hồn và một tài hoa. Một tâm
hồn để rung động và một tài hoa để biến rung động thành thơ.”
DU
TỬ LÊ
Cõi thơ, cõi nhớ, cõi tình
Cõi thơ, cõi nhớ, cõi tình
Trước đó, tôi không thể
tìm ở đâu, và sau này, có lẽ, cũng không đâu có được những câu thơ nói về cái
nhớ mênh mang tha thiết đến độ ngậm ngùi, như thế.
chỉ nhớ người thôi đủ hết đời
chim về góc biển bóng ra khơi
lòng tôi lũng thấp, tâm hiu quạnh
chẳng chiến chinh mà cũng lẻ đôi.
Tôi đã đọc những bài thơ
tình của Du Tử Lê, đọc say mê và nghiêm túc. Tôi giật mình thích thú khi khám
phá ra một cách muộn màng cái cảm xúc êm đềm cắt cứa trái tim mình khi hồi
tưởng lại những cuộc tình lỡ trong đời. Tôi thảng thốt vì ngôn ngữ Lê dùng, vì
những điều tầm thường hết sức của đời sống, trong đời sống, nhưng khi là thơ,
chỉ có Du Tử Lê mới đem được tình yêu vào mọi chốn, mọi nơi, mọi ngõ ngách của
đời dung tục hay chỗ thanh cao:
thiền viện tôi trưng chỉ ảnh em
kinh kệ nghìn pho có một tên
viết hoa một chữ không ai hiểu
Phật bảo: - kinh mà không phải kinh.
Có phải chăng yêu là khổ?
Yêu là chia lìa? Là ngăn cách? Là tan vỡ? Là trống vắng? Cô đơn? Buồn
thảm?
rồi em bỏ tôi đi
anh ở lại như con sâu kèn
ngủ vùi trong bao kín tối tăm
Nỗi buồn không phải chỉ
gói ủ trong trái tim Lê. Nó đã tràn phủ, đã tưới đầy,đã thấm ướt tất cả mọi
cảnh, mọi vật, mọi hình ảnh chung quanh. Để thơ Lê, không những chỉ là nhạc, mà
còn là tranh vẽ. Có khi chỉ là vài nét chấm phá rất như sơn thủy của Đường Thi.
Có khi là tranh tĩnh vật lạnh lùng, nhưng Lê đã ban cho gỗ đá một linh hồn sống
động mà u uất, biết buồn dùm, mang hộ và đã cùng nhà thơ chia sẻ mối sầu ảm đạm
của cô đơn. Điềm đạm thôi, nhưng vô ngần thống thiết:
tháng hai bụi phủ từng vai ghế
tôi với bàn: chia nỗi ngổn ngang.
Thơ Tình Du Tử Lê được
yêu chuộng, là vì nó không phải là thơ tình thường của thứ thơ viễn mộng, than
gió khóc mây, mơ trăng sao tưởng hoa bướm, gọi nắng réo mưa, thở than đến làm
người nghe sốt ruột. Ngôn ngữ của Lê hay “cõi thơ” của Lê gồm đầy, có đủ những
thứ đó nhưng được trình bày một cách riêng, rất riêng, cách lạ, rất lạ, rất Du
Tử Lê, mà trong đó, Tình Yêu được nâng cao đến thiêng liêng. Như hình ảnh những
người nữ, Em Và Mẹ, Và Quê Hương. Quê Hương là Mẹ, là Em, là đối tượng cực cùng
cao trọng mà Lê thánh hóa:
hãy hỏi Chúa đi, rồi em sẽ hay
tôi gầy như lá, lá như mây
rừng khuya thổi rớt bao tâm sự
thiên đàng tôi là người hay ai?
hỏi môi đi, môi còn muối mặn?
hỏi tóc đi, sông những buồn vui?
và hỏi Chúa đi, Chúa sẽ trả lời
trong tay Thánh Nữ, có đời tôi.
Trong thơ Lê có nhạc. Bởi
thế mà nhiều nhạc sĩ đã hứng cảm lấy thơ Lê phổ nhạc. Trường hợp thơ phổ nhạc
không hiếm thiếu, nhưng tác giả có nhiều thơ được phổ nhạc và được quần chúng
đón nhận nhiệt tình và nhiệt tình yêu thích, tôi nghĩ, chỉ có Du Tử Lê. Người
ta yêu thích thơ Lê, bởi thơ Lê đưa dắt chúng ta bước thẳng vào cuộc đời, thiết
tha ôm ấp lấy đời sống. Chắt chiu cưng quý đời sống vì đời sống đó của Lê, có
tình yêu, có bạn bè, có những điều mà chỉ những người có cảm năng nhậy bén và
tài hoa nghệ sĩ như Lê mới nhận thức, mới thấu suốt được mọi tế vi huyền nhiệm
của tình yêu và Lê đã đem khả năng mình để âu yếm tôn vinh, say mê tận tụy khi
nhìn vào một nơi chốn mà Lê gọi là Ở Chỗ Nhân Gian Không Thể Hiểu. Chỉ một mình
Lê hiểu và Lê có sứ mạng thiêng liêng phải đem truyền giảng:
hãy nói về cuộc đời
khi tôi không còn nữa
sẽ lấy được những gì?
về bên kia thế giới
ngoài trống vắng mà thôi
Thụy ơi và tình ơi.
Có phải không? Thơ Tình
của Lê đầy ắp mùi Thiền, chứa chan kinh điển của mọi thứ tôn giáo mà Lê nhiệt
thành rao giảng trong vai trò của một cấp thừa sai. Tôi thật tình không thể
biết được có bao nhiêu người nữ đã đi qua đời Lê. Nhưng tôi biết Lê chung thủy,
yêu say đắm và giữ gìn trân trọng kỷ niệm, những cuộc tình vỡ tan cũng đẹp,với
những người con gái yêu Lê và Lê yêu. Tôi nghiệm ra điều đó vì tấm lòng của Lê
đối với bạn bè cũng thủy chung, đằm thắm như vậy, và vì chúng tôi hiểu nhau.
Thơ tình Du Tử Lê không
chỉ thế thôi đâu. Nó chứa đựng không phải chỉ tình yêu người nam với người nữ,
giữa Lê và những người con gái yêu Lê và Lê yêu. Nó là tổng hợp cả tình Lê với
Mẹ, với Chị, với Em, với Anh em bạn bè, với Đất nước, Quê hương. Em Và Mẹ Và
Tôi Là Một. Du Tử Lê Với Quê Hương Là Một. Nhà văn Mai Thảo gọi đó là “cõi” thơ
Du Tử Lê, mênh mông, sáng tạo, sung mãn, mới và mới không ngừng. Nguyên Sa, Nguyễn
Mạnh Trinh, Đỗ Quý Toàn, cùng những người phê bình khác gọi “cõi thơ Du Tử Lê”
là những gì rất lớn, bởi Lê là một nhà thơ lớn của văn học nghệ thuật miền Nam,
tiêu biểu và độc đáo, không thuộc một trường phái nào cả.
Nói như Đỗ Quý Toàn: “...Thơ Du Tử Lê gần đây, phải gọi là lạ. Phải
nói là mới. Phải nói là những người khác không thể làm được. Nếu có khổ công
dùi mài thì cũng chỉ có thể giông giống mà không có cái thần độc đáo. Thần khí
độc đáo đó, chỉ có nơi những người sống chết với thơ, như Du Tử Lê, mới có thể
có được mà thôi.”
Tôi không dám và không
thể mệnh danh thơ Du Tử Lê, mà chỉ giản dị và thân mật, yêu mến gọi đó là thơ
Lê, thơ Du Tử Lê. Tôi không làm cái điều phê bình hay phân tích thơ Lê ngày hôm
nay. Vì tôi không đủ khả năng. Tôi chỉ xin phép được nói lên cảm nghĩ và sự yêu
thích thơ Lê, trong “cõi” riêng của tôi. Bởi vì thơ Lê lạ lắm, nó đã cho tôi
rất nhiều cảm động. Hứng khởi có, ngậm ngùi có. Về tình yêu người, yêu thương
đời sống. Tôi tìm thấy đầy đủ những cái rất riêng tư của mình trong thơ Lê.
Nhất là tình yêu và tuổi thơ, cùng niềm say mê thú vị với cây đũa nhiệm mầu của
bà Tiên, ở trong tay Lê đã ban cho chim chóc, núi đồi, sông lạch, cỏ cây, gỗ đá
những linh hồn sống động, khiến tôi thấy như được quay về với tuổi thơ tôi,
tuổi thơ Lê nơi ngôi trường Hàng Vôi, Hà Nội mà chúng tôi đã có một thời thơ ấu
cùng nhau. Hà Nội, mùa đông, những chiếc lá bàng nằm quằn quại thở thoi thóp
trên sân trường. Những con vật vẽ nói tiếng người trong phim hoạt họa ở rạp Lửa
Hồng... Những con rối diễn tuồng cổ tích trên sân khấu Nhà Hát Lớn Hà Nội của
Họa sĩ Mạnh Quỳnh, để Lê có: con dế buồn tự tử giữa đêm sương; có: giòng sông
tội lỗi, bầy sẻ cũ cũng qua đời lặng lẽ, con sóng tình vỗ mãi một âm quên, hay:
tháng hai cành nhớ lá sương đầy, Hay: tôi buồn như phố cũ như tay...bàn chân
từng ngón ngưng không thở.., còn nhiều, nhiều nữa. (...)
DU
TỬ LÊ
Thi Ca Và Hội Họa
Thi Ca Và Hội Họa
Quan niệm hội họa và thi
ca là hai bộ môn nghệ thuật có tính liên đới mật thiết. Nói cách khác, họa sĩ
sáng tác thơ bằng hình ảnh và màu sắc, còn thi sĩ vẽ tranh bằng ngôn ngữ và vần
điệu.
Quan niệm cổ điển về nghệ
thuật cũng cho rằng mục đích của hội họa và thi ca là diễn tả vẻ đẹp của đời
sống bao gồm những gì ta nhìn, cảm thấy được, và cả những vẻ đẹp cần có hay nên
có cho cuộc đời. Như vậy nghệ thuật-hội họa và thi ca-vừa phản ảnh vừa tạo ra
nét đẹp cho đời sống.
Nếu ta chấp nhận rằng họa
sĩ sáng tác thơ bằng màu sắc và hình ảnh còn thi sĩ vẽ tranh bằng ngôn ngữ và
vần điệu thì việc Du Tử Lê bước vào con đường hội họa là điều rất bình thường
và cần thiết. Tôi vẫn nghĩ khi Nguyễn Du viết “Vầng trăng ai xẻ làm hai/ Nửa in
gối chiếc/ nửa soi dặm đường/,” ông đã vẽ lên trong tâm trí mình một bức tranh
chia lìa tan tác. Và gần đây, khi Du Tử Lê Viết: “Tôi thấy dòng sông trong mắt
em/quê người in vách bóng chim/. câm./ đèn hoa trôi giữa đôi vai Huế/ cùng với
tình-yêu-tôi-xốn-xang/” (dutule.com), ta cũng nhìn thấy một bức tranh đầy hình
bóng và ấn tượng. Như vậy khi Du Tử Lê mở cánh cửa hội họa, ông đã mang vào thế
giới ấy hàng trăm họa phẩm bằng thơ của mình.
Nếu thi ca có sức mạnh
thôi thúc các danh họa sáng tác những tuyệt tác như thế thì việc một họa sĩ làm
thơ hay thi sĩ vẽ tranh thì cũng chỉ là việc bình thường. Không phải là người
có kiến thức và năng khiếu về hội họa, nên, tôi không thể phê bình về tính nghệ
thuật chuyên môn trong tranh Du Tử Lê. Xem tranh Du Tử Lê không nên xem bằng
mắt nhưng phải xem bằng trái tim. Có thể hiểu rằng, khi đứng trước bức tranh
của Du Tử Lê, ta đừng cắt nghĩa hay phân tích về kỹ thuật, về màu sắc, hay bố
cục, nhưng hãy để màu sắc, hình ảnh trong tranh ông tự nói lên nhưng gì cần
nói.
Cái đẹp hay giá trị trong
tranh Du Tử Lê là những gì còn sót đọng lại trong ký ức và được tả lại, kể lại
bằng màu sắc và đường nét trên những đường cọ tâm hồn.
DU
TỬ LÊ
Những câu thơ thành ngôn ngữ hằng ngày
Những câu thơ thành ngôn ngữ hằng ngày
Du Tử Lê, quả nhiên vẫn
là một nhà thơ hiếm hoi. Anh vẫn một mình một cõi. Đó là một điều đặc biệt. Và
đối với một thi sĩ, thì đó là một sự thành công.
Bởi vì, thi sĩ phải là
một thi sĩ riêng cho mình, không thể lẫn vào một thi sĩ khác được. Du Tử Lê vẫn
luôn luôn tìm cách làm mới tiếng nói của mình. Tức là làm mới thơ của chính Du
Tử Lê; cũng như góp phần làm mới thi ca của người Việt Nam.
Chúng ta biết thơ có hai
cách diễn tả: Tự nguyên thủy, thơ là lời nói, lời phát âm ra. Rồi, từ cả vài
ngàn năm nay, loài người dùng chữ viết, thành ra thơ cũng là một nghệ thuật
dùng chữ viết, in ra nữa.
Hai hình ảnh mà ta tiếp
nhận thơ là nghe lời người ta nói và đọc bài thơ trên giấy. Cả hai hình thức đó
Du tử Lê đều tìm cách làm mới cả.
Nhiều người cho rằng Du
tử Lê hơi cầu kỳ. Khi anh sử dụng rất nhiều thứ dấu khác nhau. Như dấu phẩy,
dấu chấm, dấu ngang, dấu dọc, gạch chéo, gạch ngang…để làm cho thơ của anh khác
thường.
Nhưng tôi nghĩ, người thi
sĩ có những lúc có nhu cầu là phải làm sao để diễn tả được đúng tâm trạng của
mình. Họ sợ rằng người đọc bài thơ trên giấy không thấu hiểu hết ý của mình,
nên phải dùng thêm dấu nọ dấu kia, để theo đó mà người đọc thấu hiểu thêm.
Thí dụ câu thơ dưới đây
trong tập thơ mới của Du Tử Lê. Nếu tôi đọc những câu thơ này theo lối bình
thường, tôi sẽ đọc là:
Người cho tôi vực khuya
Đêm vọng nồng tiếng hát
Những ngón tay xuân thì
Bươi tìm tôi thất lạc.
Đó là những câu thơ rất
đẹp.Nhưng nếu chúng ta theo cái cách của tác giả diễn tả. Và khi người đọc được
nhìn vào bản văn với những dấu chấm, dấu phẩy, dấu gạch ngang, dấu hai chấm,
dấu ba chấm của tác giả, người đọc sẽ đọc nó khác đi một chút. Nó có thể sẽ
là:
Người cho tôi vực, khuya
Đêm vọng, nồng tiếng hát.
Những ngón tay xuân thì:
Bươi, tìm tôi-thất-lạc.
Chữ “tôi-thất-lạc”, tác
giả gạch giữa. Ba chữ đó là một tiếng mà thôi. Chúng trở nên một cụm từ, dính
liền nhau. Cái “tôi-thất-lạc”. Người ta thấy tác giả diễn tả một cái gì khác.
Không phải là... tôi thất lạc.
Đó là một cố gắng của Du
Tử Lê. Cố gắng làm cho tiếng nói và thơ của ông diễn tả đúng tâm trạng của ông
hơn.
Tuy nhiên, nếu quý vị
thấy mình có thể tiếp nhận một cách khác, hoặc cho rằng tại sao lại phải cầu kỳ
như vậy thì có thể tùy ý.
Dù sao thì chúng ta phải
nhận thấy rằng Du Tử Lê không phải là người cầu kỳ. Bởi vì người cầu kỳ thì thơ
sẽ làm cho người ta kinh ngạc. Người ta sợ, mà người ta không yêu được.
Chúng ta phải công nhận rằng Du Tử Lê đã thành
công trong việc làm cho nhiều người yêu thơ ông. Phải nói là, Du Tử Lê đã làm
chủ được ngôn ngữ mà ông đã sử dụng, là tiếng Việt Nam. Ông đã sống với nó, đã yêu nó.
Nhờ thế mà Du Tử Lê đã diễn tả được những điều rất giản dị, không cầu kỳ; làm
cho ai cũng hiểu và tự nhiên mà nhớ.
Một thi sĩ có những câu thơ thành ngôn ngữ hằng
ngày của chúng ta, tôi cho đó là một thành công.
Người thi sĩ đó đã sống bằng tiếng Mẹ đẻ của mình
và, hòa nhập với cộng đồng của những người cùng chung ngôn ngữ. Đó là một thành
công.
Có thể nói Du Tử Lê là một trong những người hiếm
hoi, luôn luôn tìm cách đổi mới. Nhưng lại không quá mới đến độ xa lìa cộng
đồng cùng dùng chung ngôn ngữ với mình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét