Con người ở bất kỳ thời
đại nào đều có chung một mục đích là theo đuổi cuộc sống hạnh phúc. Không ai
trên đời này không mong cầu hạnh phúc. Mong cầu hạnh phúc và đi tìm hạnh phúc
là dấu hiệu nhận biết sự lành mạnh của mỗi con người. Suy cho cùng, tất cả ý
nghĩa, giá trị, niềm vui của cuộc sống mà chúng ta cảm thấy đều được gói ghém
trong khái niệm hạnh phúc. Đó là một khái niệm triết học rộng lớn phản ánh mục
tiêu phát triển của toàn nhân loại. Nhưng trong quá trình đi tìm hạnh phúc, con
người lại khoanh khái niệm này thành những mục tiêu rất hạn hẹp và cụ thể, ví
dụ quy thành niềm vui, hay sự thỏa mãn...
Vậy, hạnh phúc có phải là một trạng thái tinh thần nhất
thời của con người và có đơn giản chỉ là sự thỏa mãn các đòi hỏi hay không? Bản
chất của hạnh phúc thật sự là gì?
Trước những cuộc khủng bố
liên tiếp xảy ra trên khắp thế giới vào những năm gần đây, chúng ta buộc phải
đặt câu hỏi: loài người có thật hạnh phúc không? Vì thế, tôi muốn truy đuổi
khái niệm hạnh phúc để tìm ra đâu là yếu tố cơ bản tạo nên hạnh phúc của con
người.
@ HẠNH
PHÚC LÀ GÌ ?
1_
Hạnh phúc có phải là sự thỏa mãn?
Phải thừa nhận rằng, nếu
không có cảm giác thỏa mãn thì con người không thể có cảm giác hạnh phúc. Nhưng
cảm giác thỏa mãn có được bằng cách nào là yếu tố cần phải xem xét để từ đó có
thể kết luận người đó có hạnh phúc thật hay không. Tất nhiên, sự thỏa mãn sẽ
đến khi con người thấy những nhu cầu của mình được đáp ứng đầy đủ và cảm thấy
hài lòng với cuộc sống. Song, tôi muốn nói đến khía cạnh nhầm lẫn của con người
trong sự thỏa mãn, hay một trong những cách mà con người tìm thấy giá trị của
mình, tìm thấy cảm giác thỏa mãn của mình là qua sự so sánh. So sánh có phải là
cách để con người có được hạnh phúc thật sự không? So sánh là một động lực của
cạnh tranh, của việc hoàn thiện các khả năng nhưng nếu con người đi tìm cảm giác
hạnh phúc trong việc xác nhận mình có ưu thế với tất cả những đối tượng so sánh
thì đấy chính là khuyết tật của con người khi nhận thức về hạnh phúc. Tại sao
con người phải đi tìm một cách khổ sở như vậy sự hơn người của mình? Nhìn sâu
hơn vào tâm hồn, chúng ta sẽ thấy mỗi người đều có những lúc như thế. Nếu chúng
ta thua trong phép so sánh cụ thể này thì chúng ta đi tìm sự thắng ở trong phép
so sánh cụ thể khác.
Rất nhiều nhà chính trị,
nhà giáo dục, nhà đạo đức học nhầm lẫn rằng so sánh giúp con người hoàn thiện
mình. Vì họ quan niệm, ở trong những phép so sánh, các phẩm chất có thể nâng
lên được bằng cách con người tự cố gắng. Nhưng như thế, so sánh cũng chỉ là một
động lực của việc hoàn thiện, còn con người có hoàn thiện hơn được hay không là
do nhiều nhân tố khác. Nếu cứ tiếp diễn các phép so sánh để tìm thấy hạnh phúc
thì chính quá trình đó sẽ trở thành một cuộc hành hương bất tận của con người
đến sự bất hạnh. Bất hạnh vì mình thua trong các phép so sánh ấy, thậm chí,
ngay cả khi người ta tìm thấy mình thắng trong mọi phép so sánh dọc quá trình
hình thành nhân cách của mình, người đó sẽ trở thành một kẻ tự mãn, kiêu ngạo.
Thắng lợi của những phép so sánh như vậy càng lớn bao nhiêu thì con người càng
bị cô lập bấy nhiêu đối với những người xung quanh. Nhưng đó chưa phải là đỉnh
cao nhất, chưa phải là giới hạn cao nhất của sự bất hạnh. Giới hạn cao nhất của
bất hạnh chính là sự phá hoại những điều tốt đẹp. Bởi vì một kẻ nhìn thấy mình
hơn thì sẽ tự cho mình quyền coi thường người khác. Khi con người có một cái
quyền phổ biến là coi thường những người xung quanh, con người trở nên tha hóa
về mặt phẩm chất và cô đơn về mặt tâm lý. Con người ấy còn tệ hơn nữa là xây
dựng tất cả các tiềm lực để có thể lộng hành trong việc xây dựng các quan hệ.
Liệu những người tham nhũng có hạnh phúc không? Liệu những kẻ buôn lậu, những
kẻ buôn bán ma túy có sự thỏa mãn thật về tiền bạc nhưng có hạnh phúc hay
không?
Tôi không cho rằng cảm
giác thỏa mãn đồng nghĩa với hạnh phúc. Một bữa ăn ngon có thể đem lại cảm giác
thỏa mãn, nhưng cũng có thể làm tăng lượng cholesterol và do đó, chưa chắc nó
đã mang lại hạnh phúc. Con người vẫn hay nhầm lẫn giữa thỏa mãn và hạnh phúc.
Thoả mãn và hạnh phúc là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Sở dĩ có sự nhầm
lẫn ấy là bởi con người quan niệm về hạnh phúc dựa trên cảm giác chủ quan của
số đông. Do vậy, con người không có năng lực nhìn xa, không dự đoán được những
rủi ro. Nhiều nhà triết học đã nói đến hiện tượng này, hiện tượng về sự mất giá
trị của số đông. Trong một xã hội tiềm ẩn rất nhiều rủi ro cho sự tồn tại của
con người thì cảm giác của số đông đôi lúc không còn đúng đắn nữa. Chúng ta đều
thấy, báo chí đưa tin rằng, tất cả những kẻ tham nhũng trước khi bị bắt đều
được đánh giá là những đảng viên tốt. Đó không phải là sự ngụy biện cho những
kẻ tham nhũng mà đấy chính là sự nhầm lẫn của con người về khái niệm Hạnh phúc.
Những kẻ đó trước khi bị bắt rất thỏa mãn bởi họ hơn người, muốn cái gì ngon
nhất, muốn cái gì đẹp nhất, muốn cái gì hay nhất của cuộc sống họ đều có, họ
không nghĩ đến một ngày nào đó có thể bị bắt, không nghĩ đến tương lai trở
thành kẻ tội phạm, tức là họ không đủ năng lực nhận ra cái tất yếu nấp đằng sau
cái tất yếu hạn hẹp mà họ nhìn thấy. Họ quan niệm rằng cái gì không mua được
bằng tiền thì sẽ mua được bằng rất nhiều tiền, đấy là một tất yếu. Nhưng họ
quên mất rằng họ có thể sẽ phải trả giá rất đắt cho sự nhiều tiền ấy. Cảm giác
thỏa mãn như vậy thường có bởi người ta không nhận thức được rủi ro.
Trước khi cơn bão ập đến
thì biển đẹp và trời trong xanh và ít người nhận ra được đằng sau đó có thể là
một cơn bão. Bởi vậy, hạnh phúc phải là cảm giác của con người khi cảm thấy sự
yên ổn không chỉ của mình mà của cả những người liên quan đến mình.
Hạnh phúc không phải là
cảm giác thỏa mãn thuần túy và nhất thời. Thỏa mãn là một khái niệm bản năng.
Nhưng hạnh phúc không phải là một khái niệm bản năng, hạnh phúc là một khái
niệm văn hóa. Muốn biết mình hạnh phúc hay bất hạnh, con người phải có được các
nền tảng văn hóa hay những kinh nghiệm về hạnh phúc. Đó chính là sự từng trải
của con người trước các đối tượng có thể so sánh. Những giới hạn thấp làm cho
con người thỏa mãn nhưng không làm cho con người hạnh phúc, bởi vì chỉ cần nhìn
lên những giới hạn cao hơn, họ sẽ đau khổ. Vì thế, không vươn tới những sự thỏa
mãn lớn hơn cũng có nghĩa là con người không phát triển các nhu cầu của mình,
do đó con người không phát triển. Càng thỏa mãn một cách giản đơn bao nhiêu thì
chỉ tiêu để xác lập sự chậm phát triển càng rõ rệt bấy nhiêu. Do vậy, chúng ta
không nên hiểu sự thỏa mãn một cách đơn giản. Sự thỏa mãn cũng có các cấp độ
của nó.
Nếu để xác lập một mối liên hệ giữa hạnh phúc và sự thỏa
mãn thì tôi cho rằng: Hạnh phúc là năng lực biết thưởng thức và gìn giữ cho bền
vững tất cả những gì tạo ra sự thỏa mãn. Và phát triển chính là phá vỡ mọi sự
thoả mãn đơn giản.
2_
Hạnh phúc như là lẽ phải tâm hồn
Quay trở lại ví dụ về sự
thỏa mãn của những kẻ tham nhũng, buôn lậu, để biết sự thỏa mãn ấy có đem lại
hạnh phúc thật sự hay không, chúng ta phải trả lời câu hỏi: sự thỏa mãn ấy có
đúng đắn không? Bởi hạnh phúc không chỉ phản ánh sự tràn ngập cảm giác tốt đẹp
hoặc vui vẻ của một con người, hạnh phúc còn là một trạng thái tinh thần thể
hiện sự đúng đắn của con người về mặt nhận thức cũng như đạo đức. Con người
không thể hạnh phúc khi xác lập cảm giác thỏa mãn của mình trên cơ sở sự hơn
người. Hạnh phúc chỉ có được khi con đường đi đến hạnh phúc là đúng đắn và tâm
hồn con người yên ổn. Bản chất sự yên ổn của con người chính là người ta tìm
thấy sự tốt đẹp trong những người xung quanh. Tìm thấy niềm tin của mình đối
với những người xung quanh không chỉ là một trong những nguyên lí căn bản để
xây dựng cảm giác hạnh phúc của con người mà còn là nguyên lí căn bản để xây
dựng thái độ đạo đức, các nguyên tắc về mặt đạo đức trong khi chung sống. Con người
không tìm thấy sự thanh thản, không tìm thấy dấu hiệu hạnh phúc trong đời sống
tinh thần, hay không gian tinh thần của con người không tràn ngập cảm giác hạnh
phúc thì đó là một dấu hiệu báo động cho mỗi một người rằng anh ta đang sai.
Cái sai đấy thể hiện một nguyên lý phổ biến về tính chính xác của năng lực hợp
tác, phương pháp hợp tác giữa con người với cộng đồng.
Vậy cơ sở của sự đúng đắn là gì? Đó chính là lẽ phải tâm
hồn.
Lẽ phải tâm hồn làm cho
hạnh phúc trở thành một cảm giác phổ biến. Suy ra cho cùng, đời sống con người
là một tập hợp các cảm giác. Trong đó, hạnh phúc có mặt và cần phải có ở trung
tâm của mọi cảm giác còn lại. Bởi vậy, chúng ta phấn đấu để khả năng hạnh phúc
là phổ quát trong mọi trường hợp tương tác giữa con người với con người, làm
cho hạnh phúc là cảm giác phổ biến trong đời sống tinh thần mỗi người. Nếu có
công cụ để tìm ra hạnh phúc trong mọi sự tương tác thì công nghệ ấy cần phải
trở thành công nghệ phổ quát, vì chính sự phổ quát của hạnh phúc tạo ra sự
khuyến khích con người tiếp tục tồn tại và phát triển. Một con người hạnh phúc
là một con người mà cảm giác hạnh phúc phổ quát trong đời sống tinh thần. Do
đó, hạnh phúc không phải là một khái niệm bản năng, hạnh phúc là một khái niệm
văn hóa, nó phải trở thành tiêu chuẩn cho sự đúng đắn của con người trong đời
sống.
Điều đó có nghĩa là con người phải biết tạo dựng hạnh phúc
từ lẽ phải tâm hồn của mình.
Lẽ phải của một con người
là cảm giác hạnh phúc của chính người đó. Người ta hạnh phúc vì lẽ phải tràn
ngập trong tâm hồn. Khi nào hạnh phúc của mỗi người được tạo dựng trên cơ sở lẽ
phải tâm hồn thì khi đó, hạnh phúc của từng cá nhân sẽ bồi đắp nên hạnh phúc
dân tộc. Tôi cho rằng, khi hạnh phúc trở thành yếu tố phổ quát trong miền tinh
thần của một dân tộc thì đấy chính là hạnh phúc chung. Hạnh phúc chung không
phải là một không gian có mặt đầy đủ trong từng con người nhưng là một không
gian có thật trong hạnh phúc của từng người. Một dân tộc hạnh phúc là một dân
tộc tất cả mọi con người đều hạnh phúc, tự tin vào tương lai của mình.
Để có được hạnh phúc, điều đầu tiên mà mỗi con người cần
làm chính là rèn cho mình năng lực đi tìm lẽ phải, tạo dựng hạnh phúc trên cơ
sở lẽ phải tâm hồn.
@ MIỀN
TRIỂN VỌNG VÀ
HẠNH PHÚC BỀN
VỮNG ?
1_
Thế nào là hạnh phúc bền vững ?
Nếu con người không có
năng lực để đánh giá sự đúng đắn hay xác lập sự đúng đắn trong khi tiến hành
các hành vi của mình, con người không thể có hạnh phúc bền vững. Nhận thức được
các quy luật tất yếu sẽ làm cho con người trở nên đúng đắn. Ví dụ, con người không
thể tìm thấy hạnh phúc trong các phép so sánh kém, nhưng con người có thể hạnh
phúc nếu tự tin vào những gì mình có. Khi nào con người tự tin đem so sánh với
tất cả những người có địa vị như mình thì người ấy có cảm giác hạnh phúc bền
vững. Còn nếu con người thấy lép vế trong bất kỳ tương quan cùng địa vị với
mình thì người ta không thể đạt được trạng thái hạnh phúc. Người thành đạt hạnh
phúc hơn người không thành đạt, nhưng cũng có thể so sánh giữa những người
không thành đạt với nhau. Khi một người thấy rằng, có những người trên toàn thế
giới có tương quan như mình và cũng có trạng thái như mình thì người đó sẽ
không thắc mắc về sự hẩm hiu của mình nữa, không bi kịch hóa sự bất hạnh của
mình. Con người cần phải yên tâm với các trạng thái vốn có của mình. Ví dụ, con
người chạy đến sát bờ vực, cảm giác thỏa mãn lúc đầu có đến, nhưng khi rơi
xuống vực, quá trình rơi từ mép vực xuống đáy cũng đủ thời gian để con người
nhận ra rằng hạnh phúc không có được trong các cảm giác chủ quan, mà hạnh phúc
có được bằng sự nhận thức cái tất yếu. Nếu con người biết rất rõ sau bờ vực là
sự rơi tự do của mình, và nếu người ta chuẩn bị một cái dù để rơi thì con người
được quyền hưởng thụ cảm giác hạnh phúc khi bay. Như vậy, con người cần nới
rộng khả năng của mình ra khỏi các ranh giới để phát triển. Do đó, hạnh phúc
bền vững chính là hạnh phúc được xác lập trên cơ sở con người có được bản lĩnh
để duy trì cảm giác ấy trong bất kỳ điều kiện nào mà con người nhận thức đúng.
Sự đúng đắn của con người
đem so sánh trong những không gian khác nhau, với những khoảng thời gian khác
nhau và nếu như trong những tương quan ấy con người vẫn cảm thấy thỏa mãn thì
đấy chính là một dấu hiệu hạnh phúc có chất lượng bền vững, và nếu nó không lạc
hậu về mặt thời gian thì sự bền vững ấy còn lớn hơn. Như thế, hạnh phúc là một
khái niệm cực kỳ tinh tế trong phân tâm học. Hạnh phúc là cảm giác có thực, cảm
giác của lẽ phải và nó mô tả được tính triển vọng sau này. Bởi vì, nếu như hạnh
phúc là giả thì nó chuyển sang tự mãn. Vậy làm thế nào để con người phân biệt
được thước đo mà mình lựa chọn? Cái thước đo mà con người lựa chọn hoàn toàn lệ
thuộc vào kinh nghiệm của mình. Nếu con người có lác đác một vài cảm giác hạnh
phúc thì đó chưa phải là người hạnh phúc. Người hạnh phúc là người tìm thấy
tính phổ biến của công nghệ tìm ra hạnh phúc, nếu có sự tương đồng giữa cảm
giác hạnh phúc của mình và đối tượng mà mình tương tác thì người đó sẽ thấy
hạnh phúc của mình là hạnh phúc chắc chắn. Vì, nếu không có sự tương đồng thì
cảm giác hạnh phúc của người đó là chủ quan. Mà cảm giác chủ quan không phải là
lẽ phải và do đó không phải là hạnh phúc thật.
Con người nhầm lẫn hạnh
phúc là sự thỏa mãn, do vậy, khi không còn cảm giác thỏa mãn nữa thì con người
thấy hạnh phúc mong manh. Có một bức tranh của một họa sĩ Nga vẽ một cái ghế bị
cưa cụt một chân, trên đó đặt một quả táo. Người ta giải thích tác giả muốn ngụ
ý rằng quả táo đó là tượng trưng cho hạnh phúc, có nghĩa là hạnh phúc luôn
chênh vênh và mong manh. Thực ra, bền vững là một quá trình, mong manh là một trạng
thái. Nhận thức về sự mong manh của những cái mình có chính là sự thức tỉnh vĩ
đại để nói với con người rằng: hãy cảnh giác, hãy bớt một phần hưởng thụ cảm
giác hạnh phúc để giữ gìn hạnh phúc. Bởi vì, nếu như người ta hưởng thụ hạnh
phúc một cách tuyệt đối thì thành thỏa mãn và đó chính là nền tảng của tự mãn,
nhưng nếu như người ta không hưởng thụ hết tất cả cái vốn liếng mà mỗi một cảm
giác hạnh phúc mang lại, người ta cảnh giác để giữ gìn nó thì con người sẽ có
được sự bền vững của hạnh phúc. Điều đó có nghĩa là, con người phải biết đổi
từng mẩu hạnh phúc có hàng ngày lấy một sự cảnh giác để giữ gìn nó. Cho nên.
mong manh và bền vững là hai thuộc tính của khái niệm hạnh phúc.
Khi con người có lẽ phải và lẽ phải ấy là phù hợp với
những không gian, thời gian khác nhau thì con người có hạnh phúc bền vững. Hạnh
phúc bền vững là hạnh phúc thực sự và đó là mục tiêu của cuộc sống con người,
mục tiêu của sự phát triển.
2.
Hạnh phúc bền vững
- Miền chung sống giữa thành tựu và triển vọng -
- Miền chung sống giữa thành tựu và triển vọng -
Ở đâu có sự chung sống
giữa niềm tự hào về dĩ vãng với năng lực tạo ra miền triển vọng thì ở đấy có
hạnh phúc. Tôi cho rằng, xét về mặt cấu trúc các yếu tố hợp thành hạnh phúc thì
hạnh phúc bền vững là một không gian tinh thần mà ở đấy có sự chung sống, sự
hợp tác giữa quá khứ và tương lai, giữa thành tựu và triển vọng. Chúng ta đều
biết, nếu con người không có quá khứ thì con người không có niềm tự hào, dĩ
vãng hay sự thành công tạo ra một trong những nền tảng vững chắc của hạnh phúc.
Không có quá khứ, hay quá khứ là một hoang mạc thì con người đi đến tương lai
như một kẻ vất vưởng, nhưng nếu con người có thành tựu, có quá khứ hào hùng thì
họ đi đến tương lai như một người chiến thắng. Và con người có duy trì được
hạnh phúc đó trong tương lai hay không là tuỳ thuộc vào triển vọng của họ như
thế nào. Do đó, hạnh phúc là mảnh đất có sự chung sống giữa thành tựu và triển
vọng.
Tuy nhiên, hạnh phúc mà
con người mong chờ lại luôn nằm ở tương lai. Con người tìm thấy hạnh phúc khi
con người nhận ra được lợi ích về tương lai. Con người không thể tìm thấy lợi
ích trong quá khứ, vì quá khứ là một miền thật đã qua. Phải ăn tạm các món của
dĩ vãng chính là một trong những dấu hiệu bất hạnh của cả cá nhân lẫn cộng
đồng. Vì thế, con người chỉ hạnh phúc thật sự khi tìm được lối thoát hợp lý cho
mình tại mỗi một thời điểm mà con người có trách nhiệm phải tìm ra phương hướng
cho tương lai. Toàn bộ sự sáng suốt của con người là tìm ra khuynh hướng phát
triển. Khuynh hướng đúng là con người phá vỡ được các giới hạn của khả năng để
phát triển và tìm thấy được những giới hạn khác cao hơn. Như vậy, không phải
thành tựu mà chính triển vọng mới là dấu hiệu cơ bản của hạnh phúc bền vững.
Năng lực triển vọng nằm
trong chính sự đa dạng tinh thần của mỗi người. Tôi lấy ví dụ, nếu một nhà thơ
chỉ biết làm thơ thì anh ta trói buộc năng lực của mình vào thơ. Nhưng nếu cuộc
sống thay đổi, anh ta không còn là nhà thơ nữa mà đi làm một công việc khác thì
làm công việc khác ấy là một năng lực mới trong miền triển vọng của người đó.
Đấy là sự đa dạng tinh thần. Ở đây, tôi muốn nhắc lại rằng đa dạng tinh thần
phải là những năng lực sống luôn tồn tại và phát triển trong một con người. Bởi
vì con người sẽ đến miền triển vọng của mình không chỉ với tư cách là người có
năng lực để tồn tại trong đó mà còn là người giữ được giá trị của dĩ vãng. Hạnh
phúc trọn vẹn khi con người đáp ứng được đầy đủ những nhu cầu của mình. Những
người sử dụng lao động luôn luôn tìm cách làm cho năng lực lao động trở nên
chuyên nghiệp. Tuy nhiên, con người bị khai thác chuyên nghiệp thì dễ phiến diện
và không phải là con người chủ động. Con người ấy không có hạnh phúc, con người
ấy chỉ tồn tại. Con người ở những nước lạc hậu vẫn nhầm lẫn giữa tồn tại và
hạnh phúc. Sự tồn tại trong bất kỳ điều kiện nào không phải là hạnh phúc, mà sự
tồn tại như mình vốn có trong bất kỳ điều kiện nào mới chính là hạnh phúc.
Người hạnh phúc là người chủ động, người biết rất rõ lộ
trình sống, lộ trình làm việc, lộ trình cống hiến, lộ trình thưởng thức của
mình và người ta thưởng thức một cách hợp lý tất cả những yếu tố mà cuộc sống
đem lại. Nội dung sống của con người là kiểm soát hàng ngày những gì mình chịu
trách nhiệm và cái vĩ đại của một con người chính là sự bám riết lấy cuộc sống
đó. Cuộc sống mà con người chịu trách nhiệm càng dài, càng rộng bao nhiêu thì
con người càng vĩ đại bấy nhiêu. Năng lực phát triển lớn nhất của con người
chính là năng lực để đi vào các miền cao thượng của đời sống con người. Mà để
thiết kế ra tương lai hay để có được năng lực triển vọng, con người phải có tự
do.
Nguyễn Trần Bạt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét