Vốn là một con người hào hoa và
đa tình nên kể cả khi ở vào ngưỡng tuổi… “U 100”, nhạc sĩ Phạm Duy vẫn
thừa nhận rằng mình là người “nghiện yêu”, mỗi tình khúc đều liên quan
đến một cuộc tình…
Bố mất khi mới 2 tuổi (nhà văn – nhà báo
quốc ngữ tiên phong Phạm Duy Tốn, mất năm 1923), 17 tuổi bỏ nhà đi
“bụi” cũng là lúc Phạm Duy bước chân vào lĩnh vực ca nhạc, ông là ca sĩ
chuyên hát nhạc của Văn Cao trong gánh cải lương Đức Huy – Charlot Miều
đi lưu diễn từ Bắc chí Nam.
Trên bước đường rong ruổi, nhiều lần đi
xuyên Việt, từ biên giới Việt – Hoa cho đến tận Cà Mau, và sau này qua
Mỹ, rồi lại trở về Việt Nam, người nhạc sĩ tài hoa này đã để lại đằng
sau mình rất nhiều mối tình. Trong đó có 2 dấu ấn: lập gia đình
với ca sĩ Thái Hằng và và yêu một “người tình nhỏ”, người làm tặng ông
đến 300 bài thơ và là niềm cảm hứng sáng tạo nghệ thuật dồi dào của ông.
Tuy nhiên, trước khi chạm tới những “mối tình lớn” đó, chúng ta hãy
“làm quen” với những “mảnh tình vắt vai” của ông…
Những cuộc yêu không hẹn ước…
Ngay từ thời mới “bể tiếng”, Phạm Duy đã
yêu thầm một người con gái rất đẹp và nết na tên Sâm, người tỉnh Hưng
Yên. Phạm Duy đã từng viết dăm ba bức thư tình hết sức lâm li bi đát để
gửi cho người ấy. Nhưng rồi định mệnh đưa đẩy, cô Sâm nhận lời về làm vợ
ông giáo Phạm Duy Nhượng (anh ruột của Phạm Duy, tác giả Tà áo Văn
Quân).
Có lẽ vì “quê độ” với bà chị dâu trong
hoàn cảnh thật là trớ trêu này nên Phạm Duy bỏ nhà đi “bụi”. Nhưng chỉ
một thời gian sau, khi Phạm Duy còn “hát rong” ở tận miền Nam thì ở quê
nhà cô Sâm đột ngột vắn số lìa đời vì bệnh thương hàn khi tuổi đời còn
rất trẻ. Có lẽ đây là mối tình “lành mạnh” nhất của ông (bởi lúc đó ông
còn nhỏ), nhưng những mối tình khác thì…
Trong hồi ký, ông kể: “Năm 1945 từ trong Nam, tôi trở ra Hà
Nội. Ở phố Hàng Gai có một phòng trà lấy tên là “Thiên Thai”, cái tên
được đặt ra như vậy là vì tất cả dân chúng lúc đó đang ở trong tầm ảnh
hưởng của bài hát rất trữ tình của Văn Cao.
Đây là nơi tôi được các nhạc sĩ Trần
Quang Trường, Đỗ Lệnh Tâm và em là Đỗ Lệnh Kiên… đệm đàn cho tôi hát.
Cũng tại phòng trà này, tôi lăng xê giọng hát của phái nữ hay nhất lúc
đó là Thương Huyền. Nàng là người tình chớp nhoáng của tôi. Tên thật của
Nàng là Thường. Tôi đặt tên cho Nàng một cách rất giản dị, theo lối
đánh vần “thương huyền thường”.
Tôi dạy cho Thương Huyền hát bài Trao
lòng, một bài ca nhờ ở giọng hát trong trẻo của cô ca sĩ rất đa tình này
mà trở thành nổi tiếng. Thương Huyền có nụ cười và hàm răng như hoa nở.
Tính tình thuộc loại bạt mạng, bất cần đời.
Trong buổi họp mặt các văn nghệ sĩ tại
nhà của họa sĩ Phạm Văn Đôn trên đường Halais, ở dưới nhà, người ta ngâm
thơ và ca hát, ở trên lầu, bất cần mọi người, tôi và Thương Huyền yêu
nhau thắm thiết. Về sau chúng tôi còn gặp lại nhau nhiều lần trong kháng
chiến…
Đồng thời, tôi cũng có một cuộc sống tạm
bợ với một người tình khác đang làm nghề vũ nữ ở nhà hàng khiêu vũ
Tabarin tên là Định. Hà Nội lúc đó có hai vũ nữ đẹp là Định và Thơm. Cả
hai đều mê nhạc sĩ. Nàng Định ở với tôi còn nàng Thơm, lai Pháp thì lấy
Đỗ Thiều, nhạc sĩ chuyên về clarinette. Vũ nữ Định đẹp một cách lộng
lẫy, trông như con gái nhà lành.
Hơn thế nữa, trông như con nhà quyền
quý. Cô vũ nữ có đôi bàn tay rất mọng này lại là con người có tính đồng
bóng. Vừa mới ngủ với người tình trong đêm, sáng ra lại trợn mắt hỏi:
“Anh là ai?”. Tôi soạn cho cô vũ nữ tàng tàng này một bài hát lấy tên là
Tình kỹ nữ: “Đêm nay đôi người khách giang hồ. Gặp nhau tình trăng
nước…”. Nàng vũ nữ Định sau này chết vì bệnh ho lao trong cảnh nghèo nàn
tại Sài Gòn vào năm 1960″.
Trong hồi ký, Phạm Duy còn nói đến chi
tiết ông được ông bà quan tri huyện nhận làm con nuôi, rồi họ nhờ ông
lên vùng Nhã Nam (Yên Thế) coi sóc đồn điền. Ở đây chàng nhạc sĩ họ Phạm
đã từng “dính líu” đến ít nhất là hai nàng thôn nữ: “Xin nhắc lại là
khi đó tôi có hai người tình là gái quê một trăm phần trăm, mà lại là
gái quê vùng Yên Thế. Trong lần trở về vùng quê cũ này, tôi chỉ gặp lại
một người mà xưa kia tôi có ý định lấy làm vợ. Nàng tên là Hạ và là con
gái lớn của một ông Chánh Tổng.
Cảnh làng mạc có đôi phần đổi thay, tôi
hỏi thăm đường về nhà ông bố vợ hụt… Gặp lại cô gái quê, thấy nàng vẫn
chưa lấy chồng, vẫn còn đẹp, vẫn quần quật lao động… Trong mấy ngày ở
lại đây, tôi được hưởng những đêm ái ân nồng cháy trên ổ rơm thơm phưng
phức bên người đẹp nhà nông có thân hình cứng như… gỗ lim này. Đến bây
giờ tôi vẫn không hiểu tại sao lúc đó tôi không ở lại Nhã Nam, lấy cô
gái quê này làm vợ, trở thành một anh nông dân không tên tuổi? Âu cũng
là số kiếp…”
Cuối năm 1946, Phạm Duy gia nhập Đoàn
Văn nghệ Giải Phóng, đóng quân và lưu diễn từ Sơn Tây qua Vĩnh Yên tới
Lào Cai. Tại đây, chỉ vì quá nể anh bạn thân là nhạc sĩ Văn Cao nên
chàng từ giã đoàn (mùa hè năm 1947) để ở lại hát cho “quán Biên Thùy”
của Văn Cao. Và, chàng “bắt tình” (chữ của Phạm Duy) với một cô chiêu
đãi viên vốn là vũ nữ ở Hà Nội, ca khúc nổi tiếng Bên cầu biên giới cũng
ra đời tại đây. Cuối năm 1947, Phạm Duy và nhạc sĩ Ngọc Bích (tác giả
Mộng chiều xuân) rủ nhau về Chợ Đại…
Cuối năm 1946, có một gia đình nghệ sĩ
từ Hà Nội chạy tản cư về Hà Đông, mở một quán phở kiêm quán cà phê, gọi
là quán “Thăng Long” ở Chợ Đại – Cống Thần. Đó là gia đình ông Phạm Đình
Phụng. Ông thích nhạc cổ còn bà (vợ sau) cũng là một ca nương nên dù
chạy giặc vẫn mang đàn đi theo. Ông chơi đàn nguyệt còn bà dạo ngón đàn
tranh, tỳ bà…
Ông bà có 3 người con: Phạm Thị Thái
(sau này là ca sĩ Thái Hằng), Phạm Đình Chương (sau này là nhạc sĩ Phạm
Đình Chương tức ca sĩ Hoài Bắc) và Phạm Thị Băng Thanh (sau này là ca sĩ
Thái Thanh). Nếu kể cả 2 người con trai của bà vợ trước gồm: Phạm Đình
Sĩ (bố của ca sĩ Mai Hương sau này) và Phạm Đình Viêm (tức ca sĩ Hoài
Trung), thêm vào dâu, rể (nhạc sĩ Phạm Duy, ca sĩ Khánh Ngọc) và thế hệ
con cháu… thì gia đình “Thăng Long” này quả là một “thế lực” trong lĩnh
vực ca nhạc…
Năm ấy, cô Thái vào khoảng 20 tuổi,
chẳng những hát hay mà còn biết chơi đàn guitare Hawaienne. Tuy vậy, lúc
nào nàng cũng có một vẻ buồn xa xăm… Quán Thăng Long lúc đó là nơi hội
tụ của giới văn nghệ sĩ tản cư, và cô Thái chính là đích ngắm của hàng
loạt “cây si” tên tuổi: thi sĩ Huyền Kiêu, thi sĩ Đinh Hùng, họa sĩ Bùi
Xuân Phái, nhạc sĩ Ngọc Bích…
Trước khi đi tản cư, cô Thái từng gia
nhập đoàn kịch của Thế Lữ (cô Thái là cháu bà Song Kim, vợ Thế Lữ), được
nhà thơ Thế Lữ đặt cho nghệ danh là Thái Hằng nên cô dùng luôn cho tới
lúc lìa đời… Thế nhưng trong những người vây quanh cô Thái lúc bấy giờ
lại chẳng có Phạm Duy, dù rằng anh vẫn thường đến quán Thăng Long và
tham gia những “show” văn nghệ của gia đình này.
Có hôm cao hứng, anh còn nhảy lên bàn
ăn, vung tay múa chân hát nhạc Văn Cao hay ngâm thơ Hoàng Cầm… Sở dĩ
Phạm Duy không “mặn mà” với quán Thăng Long là bởi lúc này (năm 1948)
anh đang khoái nằm trong một con đò, thả trôi bồng bềnh trên một khúc
sông dài 5km của Chợ Đại – Cống Thần ôm một người đẹp tên là Hiếu.
“Nàng thuộc vào loại đàn bà rất phóng
túng của Hà Nội mấy năm trước đây, có một thân hình nở nang đẹp đẽ không
thua gì bức tượng của thần Vệ Nữ ở Milo, có đôi mắt lặng lờ và khiêu
khích, có cái răng khểnh rất kiêu sa và có một con tim bốc lửa. Tôi sống
với nàng Hiếu trong một con thuyền nhỏ. Thuyền tình này khi thì trôi
trên dòng sông Đáy, khi thì đậu ở bến chợ Đại hay bến Cống Thần. Đêm đêm
tôi giả vờ là anh Trương Chi, ôm đàn guitare, ngồi hát ở mạn thuyền.
Tại đây tôi soạn bài Tiếng đàn tôi: “Mênh mông lả ơi. Thuyền về tới bến
Mê rồi. Khoan khoan hò ơi. Dặt dìu trong tiếng đàn tôi…”.
Vào đầu năm 1949, Phạm Duy và mấy anh em
Phạm Đình Viêm, Phạm Đình Chương, Thái Hằng, Băng Thanh (tức Thái
Thanh) gia nhập các ban văn nghệ quân đội của Liên khu IV, hai ông bà
chủ quán Thăng Long cũng rời Chợ Đại di cư vào Thanh Hóa để được sống
gần gũi các con. Hai ông bà tới Chợ Neo, thuê
lại căn nhà lá và mở một quán phở, vẫn lấy tên là quán Thăng Long… Vì
là đồng đội trong đoàn văn nghệ quân đội, bản thân lại “tứ cố vô thân”
nên vào những ngày nghỉ, Phạm Duy thường hay theo Phạm Đình Viêm và Thái
Hằng về chơi quán Thăng Long và được bố mẹ họ coi như người nhà. Anh
được ăn uống và ngủ luôn tại quán. Giường ngủ là hai cái bàn trong quán
ăn kê sát nhau. Họ thường đàn đúm, ca hát với nhau suốt ngày… Tại đây, những lúc quán vắng khách, Phạm
Duy ngồi trên cái chõng tre, nhìn ra cánh đồng xanh rực nắng hay nằm
dưới ánh đèn dầu để soạn lời ca tiếng Việt cho những bài Sérénade
(Schubert), Plaisir d’amour, Célèbre Valse (Brahms), Back To Sorriento,
Les Millions d’Arlequin… tặng hai chị em Thái Hằng, Băng Thanh…
Thực ra lúc đầu, Phạm Duy chẳng để ý gì
đến Thái Hằng, dù từng nghe nàng hát, nàng đàn guitare Hawaienne – nhưng
đó là khi còn ở Chợ Đại, quanh nàng luôn vây kín những “cây si” mà nếu
so với Phạm Duy thì họ thuộc hạng “đại kình địch” nên anh chàng lãng ra
để còn “bận bịu” với những mối tình bèo mây khác… Chỉ đến khi cùng sống
dưới một mái nhà, cùng vui đùa ca hát và có rất nhiều thì giờ để hiểu
biết nhau, Phạm Duy mới nhìn ra những tố chất của một người vợ lý tưởng
qua người con gái này, nhìn lại mình cũng đã xấp xỉ tuổi 30 – cái tuổi
cần phải… lấy vợ !
Nhạc sỹ
Phạm Duy thừa nhận là mình yêu nhiều, và luôn yêu say đắm, nồng
nàn. Trong cuộc đời của ông, ông có một mối tình mười năm "yêu đương tha
thiết" với một nữ thi sĩ. Với ông đây là mối tình thuần túy xuất phát
từ tình cảm trong sáng mà không nhuốm màu "sắc dục".
Với
nhạc sỹ Phạm Duy, trong mỗi sáng tác của ông thường có những "bóng hồng"
cụ thể chứ không mơ hồ, ảo ảnh. Đặc biệt, trong cuộc đời của nhạc sĩ
Phạm Duy, ngoài người vợ thì có một người phụ nữ đặc biệt.
Đó
là một nữ thi sĩ đã gửi cho ông hàng trăm bài thơ và trong số đó đã
biến thành nhiều bài hát nổi tiếng. Ông bảo, ông "yêu" tha thiết người
con gái đó, ông viết tặng cho người đó rất nhiều bản tình ca. Nhưng
trong suốt thời gian 10 năm "yêu đương tha thiết" người con gái đó, vợ
ông cũng không hề ghen vì bà biết rằng đó chỉ là "mối tình thơ nhạc".
Nhạc sỹ Phạm Duy trải lòng :
"Tình
trong ca khúc của tôi là có thật. Tôi yêu ai đó bạn bè của tôi biết, vợ
tôi cũng biết chứ không ảo ảnh, mơ mộng như Trịnh Công Sơn. Giữa lúc
khó khăn, Trịnh tìm tình ru đời vào cõi mộng mị, tôi vẫn phá ra vách
tường sương mù để tìm về thực tại"
Ông
chia sẻ rất hóm hỉnh
về tình duyên của mình:
về tình duyên của mình:
"Tôi quan niệm tình yêu
đẹp lắm. Người nam và người nữ yêu nhau mới có cuộc đời, còn nếu không
yêu thì tuyệt giống từ lâu rồi. Không phải dân Việt Nam từ 24 triệu
người lên gần 100 triệu như bây giờ. Tôi là người yêu sự sống, và với
tôi, sinh ra cuộc đời này là người đàn bà, thành ra phải quý trọng".
Vẫn
nhớ những mối tình mà nhiều phụ nữ dành tặng, nhưng ông lại chưa từng
công bố. Với ông, nói về một bản tình ca nếu có chăng chỉ gắn với những
kỷ vật của "người ấy". Còn tên tuổi của những "bóng hồng" lại được ông
giữ bí mật làm "của riêng mình".
Không nói tên nữ thi sỹ mà ông
đã yêu trong suốt 10 năm, dù khi ấy đã có vợ. Ông gọi đó là mối "tình
thơ-nhạc": "Tôi yêu người phụ nữ ấy lắm. Trong gia tài các nhạc phẩm của
tôi, tôi dành tặng bà ấy 40 bài hát, đó là Phạm Duy lúc còn trẻ. Với
tôi, có ba bài hát đánh đấu thời điểm tôi yêu, tôi xa và tôi quên bà ấy
là: Ngày ấy chúng mình, Ngàn trùng xa cách và Chỉ từng đấy thôi".
Người
yêu 10 năm ấy của nhạc sỹ Phạm Duy hiện đang ở Francisco (Mỹ). Thời
ngập tràn yêu thương nữ thi sỹ đã gửi tặng nhạc sỹ 300 bài thơ tình. Ông
cũng đã phổ nhạc rất nhiều bài thơ trong số đó.
Nói
là đã quên nàng thơ của mình, nhưng trong sâu thẳm hồi ức của người
nhạc sỹ đa tình vẫn hoài vọng tình xưa. Trong đâu đấy những trang hồi
ký, lời dẫn cho ca khúc nhạc sỹ Phạm Duy vẫn để bóng nàng thơ hiện về:
"Từ nay trở đi, tôi sống với kỷ niệm và không một lúc nào tôi ngưng soạn
tình ca một mình, khi thì mượn lời thơ của các thi sỹ, khi thì do chính
tôi soạn cả nhạc lẫn lời".
Yêu
thì dốc hết lòng, nhưng trong thực tại ông vẫn không quên mình là người
chồng, người cha của những đứa con. Có lẽ vì thế mà nàng thơ dù đã 10
năm yêu vẫn quyết định ra đi hay chăng? Bà Thái Hằng (vợ ông) cũng chỉ
coi nữ thi sĩ đó chỉ là mối tình thơ - tình của ông, đó là hai tâm hồn
đồng điệu với nhau dìu nhau cùng thăng hoa trong nghệ thuật. Chính vì
thế, tình yêu ấy cứ gắn bó như vậy thôi mà không có sự hờn ghen, trách
cứ từ phía bà Thái Hằng.
Nhạc sỹ Phạm Duy nói về
sự "nghiện yêu" của mình khá khôi hài:
"Tôi yêu làm ngọn nguồn cho cảm hứng sáng tác.Tôi "nghiện yêu", như
Trịnh Công Sơn nghiện rượu ấy, như Văn Cao mê thuốc phiện thôi".
Nói
đến tình cảm với vợ, ông thể hiện sự tôn thờ:
"Tôi trở về nước, bà ấy
nằm lại đất Mỹ, và tôi không thể yêu ai được nữa khi vợ tôi qua đời. Tôi
mãi chung tình với bà, và bà cũng chấp nhận tôi với những cuộc tình
thơ. Đó là cái hay mà tôi thầm cảm ơn bà đến hết cuộc đời".
(Theo Nguoiduatin.vn)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét