1_  Vì sao ông quan tâm  đến văn chương?
          Thỉnh thoảng 
chính tôi cũng thử đặt ra cho mình câu hỏi này. Và câu trả lời được tôi 
tìm thấy trong cuộc đời  lúc thơ ấu khá buồn bã của mình.
          Mẹ  tôi mất sớm, năm tôi mới bốn tuổi. Cả
 thời thơ ấu tôi lớn lên trong đơn độc, bố tôi và mẹ kế chỉ lo kiếm ăn, 
người chị hơn tôi sáu tuổi cũng  phải sớm chạy chợ để lo thêm sinh kế 
cho gia đình.
          Những cuốn sách phổ thông mà tôi tìm 
thấy ở gia đình lúc đó nhầu nát, đầy vết muội đèn, mực đen, giấy xấu. 
Song tôi vẫn chỉ có chúng làm bè bạn. Sách an ủi tôi. Tôi cảm thấy qua 
văn chương hiểu thêm cuộc đời chung quanh. Tôi tin mọi chuyện được kể 
lại trong sách là thực và hay lấy tình tiết trong truyện để vận vào 
mình. 
          Nhiều lần tôi khóc sau khi đọc truyện Phạm Công Cúc Hoa và Tống Trân Cúc Hoa.
  Ở một trong hai truyện này (lâu ngày đọc cũng không nhớ chính xác) có 
đoạn kể, người mẹ mất sớm, bố lấy dì ghẻ, hai anh em đi tìm mẹ. Người mẹ
 cảm lòng con, đêm đêm hiện về trò chuyện với các con. Gần sáng mẹ phải 
trở về cõi âm. Mẹ mới bảo các con quay lưng lại đây mẹ bắt chấy cho. Các
 con quay lưng lại, thì nhân đó mẹ biến mất.
          Sau này đọc Tắt đèn, đến đoạn chị Dậu phải bán cái Tý thường tôi cũng khóc hết nước mắt.
          Qua văn chương tôi cảm thấy nó
 -- sự đơn độc--  có mặt ở nhiều cuộc đời khác. Nhờ vậy, tôi như giải 
tỏa được ít nhiều nỗi đau trong khi vẫn là mình, yên tâm với nỗi cô độc 
 không sao dứt bỏ nổi trong mình. 
          Đọc thêm sách vở, tôi hiểu chỉ với nó, con người ta mới cảm thấy cuộc sống một cách đầy đủ nhất. 
          Nhiều
 lần tôi được các đồng nghiệp và cả các bạn bè làm nghề khác khuyên răn 
là đừng có đọc sách nhiều, phải đi vào thực tế, chứ sách vở không cho 
người ta biết cuộc đời là thế nào đâu. Tôi cảm ơn những lời khuyên đó, 
nhưng trong bụng nghĩ ngược lại và kiên trì theo con đường ngược lại. Là
 tin ở sách, dùng sách vở để kéo dài kinh nghiệm trong thực tế. 
Sau
 hơn bốn chục năm sống với văn chương nay nghĩ lại tôi thấy những trang 
sách tôi đọc không phải chỉ là cần thiết cho sự hành nghề của tôi, mà 
còn giúp cho tôi sống nữa. 
          Khi viết 
các bài phiếm luận về các vấn đề văn hóa xã hội,  tôi đã vận dụng nhiều 
hiểu biết mà tôi tiếp nhận được từ các sáng tác văn thơ đã đọc khi viết 
phê bình. 
          Càng già tôi càng tin rằng 
việc tôi quan tâm đến văn chương là một quyết định đúng lúc trẻ. Tôi rất
 muốn một dịp nào đó sẽ viết một thứ hồi ký theo chủ đề “văn chương 
trong đời tôi.”
          Có lần tôi đã liều mạng
  … định nghĩa văn học. Đây là một câu in nghiêng trích từ một bài viết 
về Vũ Trọng Phụng” Văn học là tiếng kêu khắc khoải của con người, trước 
một thực tế đời sống không bao giờ họ cảm thấy bằng lòng và sự thật là 
không bao giờ hiểu hết” ( xem  Nhà văn tiền chiến và quá trình hiện đại hóa trong văn học Việt Nam –
 H. Nxb Đại học quốc gia Hà Nội 2006, tr 174). Mặc dầu hình như chả ai 
để ý tới ý tưởng này bao giờ, nhưng tôi vẫn tha thiết với nó. Bởi nó làm
 chứng cái lý do tôi đến với văn chương mà tôi vừa nói với bạn ở trên.  
2_ Vì sao ông chọn con đường phê bình văn học? 
3_ Có khi nào ông thử sáng tác không?
3_ Có khi nào ông thử sáng tác không?
          Do thử làm thơ, tôi làm quen với một số bạn bè, và trước tiên đọc họ. Bài phê bình đầu tiên tôi viết là bài về tập thơ Sức mới. Đó là một tập thơ của các bạn lúc đó còn trẻ như tôi. Tôi đã đọc không chỉ các bài các anh in trong Sức mới
 mà còn đọc nhiều bài khác các anh đã cho in trên báo. Đọc để học cách 
làm thơ. Bây giờ tôi chỉ cần nối các ý tưởng ấy lại là hình thành nên 
bài phê bình nói trên. 
          Từ một đơn vị quân đội trên Bắc Giang, tôi gửi bài về Văn Nghệ. Bài được in gần một trang trên một số báo ra trong tháng 3-1965.
          Mối
 quan hệ của tôi với giới cầm bút bắt đầu từ đấy. Một đặc điểm trong 
cách làm nghề mấy năm đầu của tôi là lo đánh bạn với cánh sáng tác trẻ 
nhiều hơn, trò chuyện về nghề với các bậc đàn anh như Nguyễn Khải, Nguyễn
 Minh Châu nhiều hơn, trong khi chỉ quan hệ với các cây bút phê bình ở 
các báo …như các đồng nghiệp. 
          Như vậy không có gì sai nếu nói 
lúc đầu tôi viết phê bình vì sáng tác không nên thân. Đó là một điều 
nhiều bạn bè tôi hồi ấy đều biết cả, tôi có giấu cũng không được.Tôi chỉ không đồng tình với  suy diễn của một số người, họ cho rằng đã không sáng tác được thì làm phê bình cũng vứt đi. 
          Cho đến nay mối quan hệ phê bình 
sáng tác vẫn rất lủng củng. Cách nghĩ coi trọng sáng tác hơn phê bình đã
 thành nếp cố hữu ở một số đầu óc. Nhiều người công khai nhắc lại cái 
câu khái quát hàm hồ “Một nhà văn học ba ngày thành nhà phê bình chứ nhà
 phê bình học ba năm không thành nhà sáng tác được”. 
          Tôi,
 lúc ấy còn trẻ, nghe mà chết điếng trong lòng. Nhưng chỉ buồn một dạo 
rồi thôi. Lúc tỉnh táo, tôi tự nhủ: Đó là họ quá ghét phê bình nên nói 
cho sướng miệng. Maiakovski có viết một câu thơ đại ý, nếu một vì sao 
đang phát sáng vì nó đang cần cho ai đó.
          Mặc
 bao lời bỉ bác, phê bình vẫn tồn tại. Người ta coi thường những người 
phê bình viết dở như  coi thường mọi người cầm bút kém cỏi nói chung. Và
  việc đó không  khiến người ta từ bỏ  việc khao khát tìm đọc những nhà 
phê bình có tài, những nhà phê bình chân chính.
          Liên hệ bản thân, tôi nghĩ:
          --Nếu
 không viết phê bình, mình sẽ không hiểu được nghề văn cặn kẽ như hiện 
nay. Loanh quanh với những quan niệm cũ, thì có sáng tác được mình cũng 
không ra cái gì.
          --Với việc viết phê 
bình, minh nói được nhiều điều mình muốn nói, chẳng những thế,  có những
 lúc trở nên có ích  cho một số bạn đọc—thế là được rồi.
          Chung quanh mối quan hệ giữa phê bình với sáng tác cho phép tôi  nói thêm một điểm nữa: Khi
  muốn nhấn  mạnh  rằng mình là “ nhà phê bình đích thực”, “nhà phê bình
 rất có tài” … có những đồng nghiệp của tôi – kể cả khi đã cao tuổi đã 
thành danh trong nghề -- hay hí hửng khoe: mình được các nhà văn nhà thơ
 vì nể, họ coi trong mình, cho là mình mới hiểu giới sáng tác.
          Tôi
 thấy khoe thế hơi… ấu trĩ.  Gần năm chục năm sống trong nghề,  tôi nhận
 ra rằng đa số các nhà văn cũng có cái tâm lý như người thường, ai khen 
mình thì quý thì cho là có tài,  ai chê thì ghét bỏ. Nghề viết văn ở VN 
còn ở tình trạng nghiệp dư, mối quan hệ giữa những người làm nghề nhiều 
khi mang tính cách cánh hẩu và vụ lợi. 
          Trong hoàn cảnh ấy, sự phổ biến của cái tâm lý nói trên không có gì lạ. Đúng là được các nhà văn mà mình kính trọng khen, ai không thấy sướng. 
          Song
 nên nhớ sự tỉnh táo cần cho nghề viết văn nói chung, càng cần cho nghề 
phê bình nói riêng. Khi được người sáng tác khen, anh cần tự xét lời 
khen chê kia là thực bụng, hơn nữa là chính xác, hay chỉ là lối nói lấy 
lòng nhau. Khi bị chê, cũng cần yên tâm tiếp nhận và tiếp tục suy nghĩ 
về nghề. Ta viết vì nền văn học, vì bạn đọc nói chung chứ không phải vì 
riêng một ai. Ta là thế nào, ở trình độ nào, thiên hạ trước sau sẽ biết 
đánh giá đúng. Ý kiến của  mấy nhà sáng tác chỉ là những gợi ý ban đầu, 
chứ đâu phải tiếng nói cuối cùng. 
          Tóm 
lại, một thời gian dài tôi cũng có lối sùng bái vô điều kiện sáng tác 
miệt thị phê bình. Song càng sống tôi càng thấy không nên nghĩ như vậy. 
Niềm tự tin có được từ những năm trưởng thành  giúp tôi tìm thấy và khai
 thác tốt hơn phần sức lực mà tôi vốn có.
4_ Được biết ông sống ăn lương
từ nghề biên tập ở nhà xuất bản.
Ông có hài
 lòng với công việc này?
Những thuận lợi và khó khăn trong quan hệ
giữa 
công việc biên tập và công việc phê bình,
từ kinh nghiệm của ông?
          Dân
 viết phê bình thường là thầy giáo ở các trường đại học, hoặc các nhà 
báo. Số người ăn lương ở nghề xuất bản mà làm phê bình như tôi hơi ít. 
Nhưng tôi cho là tôi đã chọn đúng nghề.
          Tôi
 hiểu bạn muốn hỏi công việc biên tập giúp gì cho hoạt động của nhà phê 
bình? Giúp nhiều chứ. Tôi đọc kỹ tác phẩm hơn. Tôi vào trong bếp núc của
 sự sáng tác. Tôi có dịp trò chuyện với tác giả. Nói chung là tôi hiểu 
thêm văn học. 
          Có nhiều kỷ niệm trong cuộc đời làm biên tập, đây tôi chỉ kể hai trường hợp. Một có liên quan đến cuốn Chuyện nghề của Nguyễn Tuân. Năm ấy, khoảng 1984, cụ Nguyễn vay tiền của Nhà xuất bản Tác phẩm mới
 của tôi quá nhiều. Ông Mãi, phó giám đốc nhà xuất bản hỏi tôi có cách 
nào in cho Nguyễn một quyển sách để trừ nợ không. Tôi bảo thế thì làm 
lấy một tập bài Nguyễn Tuân viết về nghề văn. Tự tôi đi tìm tài liệu. 
Khi nhờ  sự giúp đỡ cô Hà thư viện Hội, đã có một bản thảo tàm tạm, tôi 
mới mang trình Nguyễn Tuân, xem sắp xếp các bài ra sao, đặt tên sách ra 
sao. Chuyện nghề của Nguyễn Tuân ra đời là thế.
          Trường
 hợp thứ hai, khoảng sau 1990, sau khi đọc một bài báo của Bùi Ngọc Tấn 
viết về Nguyên Hồng, tôi đã đề nghị anh viết hẳn một cuốn sách về người 
đã viết nên Bỉ vỏ, Những ngày thơ ấu. Kết quả là có cuốn Một thời để mất. Bạn đọc có thể đọc thêm quá trình trao đổi công việc giữa tôi và anh Tấn qua những lá thư mà tác giả đã công bố như một phụ lục Một thời để mất, in trong cuốn Bùi Ngọc Tấn Viết về bè bạn( nxb Hải Phòng, 2003).
          Qua
 hai trường hợp ấy và một vài trường hợp tương tự, tôi thấy giữa việc 
làm nghề phê bình mà tôi đã chọn, với nghề nghề làm công ăn lương là 
nghề biên tập, có sự hỗ trợ bổ sung cho nhau.
          Gần
 đây do quan niệm phê bình gần với tiếp thị nên mới có hiện tượng một 
người  biên tập xong một tập sách lại đứng ra viết giới thiệu tập sách 
đó trên sách báo. Thời tôi vào nghề, người biên tập phải nhường việc đó 
cho người khác, để tôn trọng công luận. Tích lũy được gì qua việc biên 
tập anh sẽ viết sau. Tôi coi tiếp thị không phải là phê bình văn học. 
          Càng
 làm biên tập tôi càng thấy người biên tập đóng vai trò không thể thiếu 
trong sự ra đời của tác phẩm. Người bạn đường. Người tư vấn. Đôi khi đó 
gần như là người truyền ban cho người khác sút. Theo chỗ tôi biết ở bên 
Tầu cũng vậy bên Tây cũng vậy. Chỉ trừ ở ta. Ở ta, các nhà văn chỉ coi 
người biên tập là một loại nhân viên soát vé. Lao động nghề văn chỉ được
 hiểu là lao động đơn độc của chính người viết. Không có sự cộng tác. 
Điều đó làm cho nhiều tác phẩm đáng lẽ có thể hoàn thiện hơn thì dừng 
lại như chúng ta đã thấy. Nhưng chả ai thấy buồn vì chuyện này cả. Chỉ 
có bạn đọc là thiệt.
5_ Không khí xã hội có ảnh hưởng
nhiều đến tâm thế viết của ông?
Rồi cả không khí trong giới cầm bút ?
          Có chứ, những diễn biến trong hoàn cảnh  ảnh
 hưởng đến tôi, cũng tương tự như thiên nhiên, khí hậu cuộc sống gia 
đình, thông tin tiếp nhận được… cũng đã ảnh hưởng đến tôi.
Bệnh
 của nhiều người viết ở VN là đua nhau chạy theo những nóng lạnh có tính
 thời sự. Tôi cũng có lúc đã mắc căn bệnh đó, đại khái là không có gì 
theo đuổi lâu dài, mà chỉ hong hóng để ý xem dư luận đang bàn về cái gì 
thì cũng ghé gẩm nói vào. Nhưng tôi chóng chán. Tự thấy so với nhiều 
người trong giới, tôi không cuồng nhiệt bằng. 
          Vả
 chăng mỗi tuổi mỗi khác. Thuở mới ba mươi bốn mươi còn thích đi nghe 
ngóng mọi người làm ăn viết lách ra sao. Từ 2007, sau khi về hưu ở tuổi 
65, tôi cố để hạn chế những ảnh hưởng từ không khí chung mà lo quay về 
sống với bản thân mình là chính. Không khí xã hội lúc này được hiểu là 
những vấn đề lớn của cả giai đoạn lịch sử lâu dài, chứ không phải những 
chuyện thời sự “ nhạy cảm” theo cách người ta hay nói.
          Một
 người phê bình tôi quen thấy có tác phẩm nào có vẻ nổi, là lo “ xí chỗ”
 ở một tờ báo nào đó xin viết, để chứng tỏ là mình nhanh tay nhanh mắt 
và sớm có mặt. Một thời tôi cũng bị cuốn theo lối làm việc ấy. Sau tôi 
nghĩ lại, cứ để cho mọi người nói trước đã. Vấn đề là mình có được những
 ý tưởng mà người khác không có.  Một nhà phê bình chân chính  phải biết
 đọc trong cái thời sự những gì thuộc về vĩnh viễn, khi đó thời sự qua 
đi người ta vẫn tìm tới văn mình. 
          Trong lý luận về tiểu thuyết của M.Bakhtin có một khái niệm là thời gian lớn,
 một điều mà Bakhtin đòi hỏi là nhà văn phải có đối thoại với cái thời 
gian lớn này, có thế mới thu hút được sự quan tâm của lịch sử văn học. 
Theo tôi, đó cũng là đòi hỏi với các nhà phê bình.
6_ Nhà phê bình nào
gợi cho ông nhiều cảm hứng nhất?
          Như tôi đã viết ở đâu đó, khoảng mấy năm  
1965-70, tôi chỉ ước mình viết được như Lê Đình Kỵ (Vũ Ngọc Phan và 
Hoài Thanh thì cao xa quá, không dám mơ). Rồi sau tôi học mỗi người một 
tí và không nghĩ rằng mình viết giống ai cả, nên cũng chẳng bị chi phối 
bởi cảm hứng về ai cả.
          Đấy là xét trên phạm vi hẹp. Còn  nhìn rộng ra  suốt cả những gì tôi đọc từ văn học nước ngoài, và xét phê bình theo nghĩa một cách giải thích về văn học, thì người tôi  cho đáng mặt một nhà phê bình nhất chính là người tôi vừa kể: M.M. Bakhtin. Trong cuốn Những vấn đề thi pháp Dostoievski (
 mà bản tiếng Việt tôi có tham gia dịch một chương) 
7_
 Liệu có thể nói rằng ông có một quan niệm riêng về nghề phê bình? Đâu 
là chỗ khác của ông với mọi đồng nghiệp khác ? Ông đã đi tới quan niệm 
này như thế nào? Và đâu là bí quyết thành công của ông trong nghề?
          Mấy nhà phê bình hàn lâm bảo đại ý là tôi 
viết như dân sáng tác thường viết, do đó có vẻ như một con quạ trắng, 
một thứ mèo hoang trong văn chương. Tôi cũng thấy vậy, nhưng không cho 
là chuyện đáng chê. Lạc sân cũng được, nửa dơi nửa chuột cũng được, miễn
 tôi có sản phẩm riêng, giọng điệu riêng. Tôi
 không tách lao động của mình khỏi lao động văn học nói chung. Tức không
 nghĩ sáng tác chỉ thu gọn lại thơ truyện. Phê bình cũng là một thứ sáng
 tác chứ. Phê bình của tôi có tư tưởng và ngôn ngữ riêng của tôi. Đó 
chẳng phải là phẩm chất thiết yếu của sáng tác hay sao? 
          Không chỉ có sở thích khác, mà có vẻ như quan niệm về phê bình của tôi cũng ít nhiều có những phần khác so với các đồng nghiệp. Một
 khía cạnh thấy rõ nhất rút ra từ quan niệm đã chi phối tôi có thể tóm 
tắt như sau: dù viết theo kiểu dân sáng tác vẫn viết hay theo kiểu hàn 
lâm, giá trị một bài phê bình không chỉ ở chỗ nó nói đúng về một 
tập thơ hay cuốn truyện, hoặc gọi ra phong cách một tác giả nào đó. Mà 
nó phải gợi ra những suy nghĩ về toàn bộ nền văn học. Hơn nữa, phê bình 
cũng là một cách nói về đời sống. 
          Phê 
bình không phải là một thứ bậc thang để người ta đi tới những giá trị 
văn học khác, do đó là một thứ dây leo sống nhờ. Mà tự nó bài phê bình 
viết hay đã là một giá trị. Tôi không dám nói là tôi đã đạt được cái chuẩn này. Nhưng tôi hướng tới nó. 
          Nếu
 đôi khi người ta có nói tới sự thành công, tôi hiểu đó là vì tôi cũng 
có được một số người đọc; có những bài viết của tôi viết từ năm mười năm
 trước, đọc lại người ta vẫn thấy nó có liên quan tới ngày hôm nay. 
          Sau khi đọc bài viết của tôi về Xuân Diệu (in trong Cây bút đời người), một độc giả cao tuổi nói với tôi: ”Khối quan chức cỡ kha khá sống như
 kiểu Xuân Diệu mà cậu mô tả”. Những lời khen loại này  làm tôi  sung 
sướng vô kể. 
          Bí quyết của tôi ư? Tôi 
cho rằng đó là nhờ tôi biết đặt văn học ta nói  chung phê bình ta nói 
riêng trong cái mạch của văn chương nói chung theo cả hai trục là trục 
dọc lịch sử và trục ngang thờì đại. 
          Văn
 học ta cũng đã và đang phát triẻn theo những quy luật chi phối sự phát 
triển các nền văn học khác. Hiện nay ở ta phê bình chỉ là một thứ phụ 
tùng tô điểm cho sáng tác, nhưng ở các nền văn học hiện đại, phê bình là
 một thứ tự ý thức của văn học. Vậy ta phải học cách viết của họ -- xin tạm tóm tắt nhận thức chi phối tôi là vậy.
          Lúc
 bắt đầu về làm báo và coi hoạt  động là nghề chính của mình, cũng là 
lúc tôi để hết sức lực học ngoại ngữ (dù chỉ để đọc sách). Ngay khi 
chưa nắm chắc tiếng Nga tôi đã tìm đọc không chỉ tiểu thuyết thơ mà cả 
báo chí xô viết và các bài phê bình in trên các tờ Văn học, Thế giới mới, Những vấn đề văn học… Tôi coi việc tìm hiểu văn học nước ngoài là yếu tố sống còn có tác động sâu sắc tới việc nghiên cứu văn học VN của mình. 
          Kết
 quả cụ thể là tôi thường loay hoay tìm cách viết một thứ phê bình không
 phải như ở chung quanh tôi, các đồng nghiệp đang viết. Mà có hơi hướng 
thứ phê bình tôi đọc được ở nước Nga xô viết hồi ấy. Trong chừng mực nào
 đó,  còn có thể nói ở đây bóng dáng của thứ phê bình ở các nước phương 
Tây mà các nhà phê bình nghiên cứu Nga giới thiệu cho độc giả nước họ. 
          Xin
 nhắc lại là không phải cái gì tôi muốn là đã tự khắc làm được; trên con
 đường mà tôi xác định phải đi, tôi chỉ bước được một khoảng ngắn; nhưng
 tôi có thể yên tâm mà nói là đã đi tìm và có vẻ như đã bước được vào 
con đường đúng.
          Vậy thì bài học tôi rút
 ra cho mình là người làm phê bình nói riêng người làm văn học nói chung
 không dễ dãi trông chung quanh, không lấy việc bắt chước những bậc đàn 
anh làm mục đích. Mà phải nhìn rộng ra các nền văn học khác. Trong điều 
kiện thời tôi trẻ, khi xã hội VN tách mình ra khỏi thế giới, tôi vẫn tìm
 cách để hội nhập với thế giới. Nay thuận lợi hơn, các bạn trẻ nên khai 
thác ưu thế này triệt để. 
8_ Những kiến thức ở đại học
có giúp ông ít nhiều? Khi viết phê bình,
ông có thường tham cứu lý luận văn học?
          Việc
 học đại học là rất cần, nhưng chỉ là cơ sở. Tôi cho rằng người sinh 
viên sau khi ra trường phải học thêm nhiều, phải vượt lên, phải phủ định
 (theo nghĩa triết học) những gì đã học. Nếu quan niệm có sự giúp của 
mấy năm đại học thì là giúp ở vai trò kích thích đó. 
          Còn tham cứu lý luận ư, tham cứu nhiều chứ.
 Nhưng tôi làm theo cách của tôi là tìm cách đọc bản gốc, hoặc bản đã 
dịch ra tiếng nước ngoài khác, chứ không qua môi giới là các “nhà lý 
luận” VN. Trong một bài viết có in lại trong tập Phê bình & tiểu luận
 mới đây (2009), tôi đã nhắc lại nhận xét của các học giả đi trước là ở 
ta có cây bút nghiên cứu lý luận nào đâu, ông cha ta không có truyền 
thống làm lý luận và đến thời nay cũng vậy. Nhìn mấy nhà tự xưng là thạo
 về lý luận, thấy thực ra họ chỉ làm việc chuyển tải kiến thức nước 
ngoài, ai giỏi thì học được cái hay, ai thô thiển dung tục thì khuân về 
một đống lù lù đấy,  rồi hô lên là mình mới là người đi tiên phong trong
 việc mang các lý luận này vào VN. Để làm bằng cấp rồi đi dạy kiếm sống 
thì thôi cũng vui lòng ủng hộ nhau, chứ đâu đã gọi là nghiên cứu với lý 
luận theo đúng nghĩa.
          Tại sao đã khá 
nhiều người thử áp dụng các thứ lý luận mới nhất vào việc nghiên cứu văn
 học VN, mà không mấy ai thành công ? Trong nhiều lý do, có lý do sau: 
tầm của chúng ta thường thấp, khả năng bao quát hạn chế.
          Cần
 nhớ rằng phải  mọi lý luận đều xuất phát từ một cái nền văn học sử nào 
đó. Người ta không thể hiểu lý luận về tiểu thuyết phương Tây, nếu không
 đọc qua để bao quát mọi chặng đường  tiểu thuyết và có cách cảm thụ 
riêng với những cuốn  tiểu thuyết cơ bản từ Don Kihote, Đỏ và đen tới Đi tìm thời gian đã mất, Ông già và biển cả...
             Về
 phần mình khi nghiên cứu về truyện ngắn, tôi đọc kỹ hai loại sách 1/ 
bản thân tác phẩm của các bậc thầy truyện ngắn  từ G. Maupassant, A. 
Tchekhov, tới A. Moravia, S. Maugham. 2/ các công trình nghiên cứu khảo 
về truyện ngắn của các bậc thầy này. Thú thực là nhiều khi tôi lại hiểu 
một vấn đề lý luận  toát ra từ các công trình văn học sử rõ hơn là khi 
đọc lý luận chay. 
          Với quan niệm như 
vậy, thì việc tham cứu lý luận là bắt buộc với mọi người viết phê bình. 
Tôi thường vẫn tiếc là chưa đọc được nhiều. Chưa
 áp dụng thành công thì phải học thêm chứ không phải quay về  bỉ bác 
người khác thần bí hóa nghề nghiệp để khoe mẽ với nhau, như một số người
 đã làm. 
          Nói thế vì tôi cũng từng 
được nghe mấy nhà phê bình tuyên bố cảm thụ là đủ , là trước hết,  nếu 
không muốn nói là tất cả. Đó là quyền của các vị ấy, và ai thích theo là
 quyền của họ. Tôi theo con đường khác. Dù tôi khi viết không dẫn ra, 
nhưng trong đầu, các kiến thức về phương pháp xu hướng vẫn đứng đó như 
những điểm đối chiếu, và trong thực tế là tôi học theo những gì tôi tin 
tưởng. Việc tìm hiểu lý thuyết không gây hại mà còn kích thích thêm sự 
cảm thụ của tôi.
          Trong số những cuốn sách gây ấn tượng nhất cho tôi  trong mấy năm gần đây (tính từ 2000) có cuốn Dẫn giải ý tưởng văn chương của tác giả Henri Benac, Nguyễn Thế Công dịch, Nxb Giáo dục 2008. Đây
 là một thứ từ điển phổ thông trình bày các khái niệm văn học được sử 
dụng ở phương Tây. Giá kể được biết nó từ sớm có lẽ hồi trẻ, tôi đã có 
thể làm việc tốt hơn. 
          Sau hết, tôi muốn nói thêm hai điều : một là
 phải học tập lý luận văn học đồng thời với tìm hiểu học hỏi các môn 
khoa học xã hội khác như lịch sử, triết học, xã hội học, tâm lý học, văn
 hóa học và cả khoa học tự nhiên như vật lý học, sinh học… nữa. Nếu 
không đọc rộng ra, thì người ta sẽ không bao giờ hiểu được lý luận văn 
học. Hai là xét ở trình độ phát triển thì cái mà chúng ta cần học
 hỏi cho nhuần nhuyễn là các thứ lý luận đã thành cổ điển. Chứ còn những
 thứ thật mới thật tân thời chỉ đúng cho những nền văn học đã phát triển
 hoàn chỉnh, cố mang về gán ghép cho văn học ta chỉ là làm trò nhận vơ 
học đòi, không bao giờ giúp cho ta hiểu về ta được. 
9_ Ông có quan tâm đến kỹ thuật viết?
                   Quan
 tâm nhiều chứ. Từ kỹ thuật viết câu dùng chữ đến kỹ thuật  theo đuổi 
một bài viết dài, tôi đều đặt vào trọng tâm cần tìm hiểu. 
          So với kỹ thuật viết truyện viết  bút ký ký
 sự, thì kỹ thuật trong việc viết phê bình có những điểm chung lại có 
những điểm riêng. Đó là loại kỹ thuật phối hợp cả thể tùy bút (essai ) lẫn thể tiểu luận ( etude). 
          Có
 một thứ thuộc loại quan trọng nhất với người viết phê bình là kỹ thuật 
viết văn xuôi. Tôi học những kỹ thuật này qua việc đọc các công trình 
của các bậc thầy phê bình.
          Ở trên tôi 
đã dẫn ra nhận xét là cách viết phê bình của tôi gần với cách viết loại 
bài của các nhà sáng tác. Thật ra thì đấy không phải ngẫu nhiên mà là 
một việc tôi làm có ý thức. 
          Chẳng hạn
 với tôi, Xuân Diệu không chỉ là nhà thơ mà còn là nhà văn xuôi độc đáo,
 bao gồm cả hai thể bút ký và tiểu luận tôi nói ở trên. Một vài phương 
diện văn xuôi tiếng Việt được ông khai thác  đến cùng. Bài Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ ( đọc tập thơ Từ ấy
 của Tố Hữu) viết 1961 là mẫu mực của việc tiếp cận tác phẩm, đặt tác 
phẩm trong văn mạch thời đại (khi xét mối quan hệ giữa Thơ mới và tập Từ ấy). 
          Còn bài Đọc lại Nguyễn Du trong Thi hào dân tộc Nguyễn Du
 thì lại là một mẫu mực của việc thay đổi cách viết đã quá quen để sử 
dụng một hình thức rất tự do là viết theo kiểu trích mảng. Đầu đuôi là 
như thế này. Chung quanh Nguyễn Du trước sau Xuân Diệu viết nhiều bài  
khác nhau. Nhưng còn nhiều tài liệu ông đã chuẩn bị mà không biết dùng 
vào đâu. Thế là ông chọn hình thức “nghĩ gì viết nấy”. Tự ông thú nhận  “
 Bài viết này tôi phải chia làm  các đoạn nhỏ với những tên đoạn  chỉ vì
 không viết cho liền được một mạch bài có bố cục lô-gích đầu cuối giữa 
hẳn hoi đành  mượn lối viết của nhà văn Nguyễn Tuân : Tản mạn chung quanh một áng Kiều” ( Xem  Xuân Diệu. Thi hào dân tộc Nguyễn Du, Nxb Văn học 1966, tr 120). Sinh thời, khi nghe tôi thán phục cách viết của  bài Đọc lại Nguyễn Du này, Xuân Diệu bảo “ Cậu cũng biết thế cơ à?! Tinh đấy.”
          Chúng
 ta đang nói về kỹ thuật dựng bài, tìm thể  loại và giọng điệu cho bài. 
Tôi cho là cách tổ chức nên bài  phê bình người ta dạy trong các trường 
đại học và các lớp viết văn ở ta quá đơn điệu và tẻ nhạt. Tôi không muốn
 đi theo lối mòn đó. Với những bài mà 
tôi cho là mẫu mực về kỹ thuật viết, tôi để công tìm hiểu cả cái cách mà
 tác giả khai phá cho mình cốt tìm ra cái hình thức ấy. 
          Tôi rất thích cái cách Gorki viết từng đoạn về L.N. Tolssoi trong phần chân dung Tolsoi của ông. 
          Tôi đã học chính cách viết của Xuân Diệu trong hai cảm nhận về cái chết của Tản Đà để viết nên bài Khả năng tỏa sáng viết khi chính Xuân Diệu qua đời. Bản thân ý niệm ánh sáng, tỏa sáng cũng là thấm vào tôi từ Xuân Diệu.
          Tôi đã đọc đi đọc lại nhiều lần bài ông tường thuật Đại hội Văn nghệ lần thứ nhất ở Việt Bắc 1948 ( có in lại trong Mài sắt nên kim,1977), để cố hiểu làm thế nào mà một bài báo thời sự mang tính chất tường thuật có thể có giá trị lâu dài. 
          Trong
 khi rèn cho mình kỹ thuật viết văn xuôi tiếng Việt, tôi học ở Xuân Diệu
 từ cách tạo những giọng khác nhau trong một văn bản, tới cách dùng dấu 
chấm phẩy. Trong những trường hợp thành công, văn xuôi  Xuân Diệu đầy 
nhạc điệu mà lại không rơi vào biền ngẫu. Nếu chỉ lấy một ví dụ thôi, 
tôi sẽ kể bài Tố Hữu với chúng tôi (cũng lại về Tố Hữu)  viết tháng giêng 1975 và có in trong Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy. Đôi khi bốc lên một chút, tôi muốn bảo bài này đáng xếp vào những áng văn xuôi tiếng Việt hay nhất mà tôi biết.
          Toàn tập Xuân Diệu do NXB Văn học
 làm năm 2001 gồm sáu tập, thì thơ chỉ chiếm một còn năm tập kia là văn 
xuôi.  Rất nhiều bài trong đó  như được ông kéo dài ra làm nôm na đi để 
thích hợp với đại chúng trong nước, nên đọc rất mệt.  Nhưng một bài như 
bài Tố Hữu với chúng tôi được viết cho độc giả phương Tây thì đạt đến cái trình độ cô đọng mà chúng ta quen với văn xuôi Xuân Diệu trước 1945.
        
10_    Có tác phẩm/ tác giả/ vấn đề văn học nào
mà ông chú ý, nhưng chưa viết được?
          Tôi là loại khổ vì quá nhiều ý định mà lại 
không có khả năng thực hiện. Ấy là không kể với tất cả những gì đã viết 
ra, về sau đọc lại, tôi luôn luôn cảm thấy có thể viết tiếp và viết 
khác. Ví dụ vào những ngày này (3-2010 ), tôi thấy  những cách tân trong thơ Trần Dần đang
 được bàn đến một cách nghiêm túc, tôi cũng có một số ý muốn viết. Tôi 
đã từng theo dõi các vấn đề này và từ 1995, trong một cuộc hội thảo đã 
có tham luận mang tên Số phận những tìm tòi hình thức trong thơ Việt Nam  từ sau 1945 ( trường hợp Nguyễn Đình Thi.) Nay có viết về Trần Dần là có sẵn  sự chuẩn bị chứ không phải thấy mọi người chú ý thì nhẩy bổ vào. Song, lại có nhiều việc cần kíp hơn thu hút, nên đành chịu.
          Chưa
 kịp viết một hai vấn đề tâm đắc, nhưng tôi có một niềm tin, những gì 
mình đã nghĩ kỹ, không nói lần này thì nói lần khác. Phê bình không chỉ 
là thứ hàng tươi sống mà còn là thứ hàng khô. Các ý tưởng sâu sắc mãi 
mãi sống động. Còn như dang dở ư? Cuộc đời nào mà chẳng dang dở. Khi 
viết về các nhân vật của Dostoievski, Bakhtin từng có cái ý  là con 
người không bao giờ trùng với chính mình, trong con người luôn luôn có 
những chỗ thiếu hụt cũng như những chỗ thừa ra , và không có con người 
nào trùng hợp hoàn toàn với những khái niệm , những cái khung mà người 
ta xếp đặt cho anh ta cả.
11_ Thời gian trung bình
dành cho một bài viết của ông là bao lâu?
          Cũng
 tùy, tôi chỉ có niềm tin, cái gì mà mình viết nhanh, đó là những cái 
mình đã chuẩn bị kỹ. Bởi vậy, khi nào thấy viết khó là tôi bỏ luôn, quay
 ra nghĩ lại và tìm thêm tài liệu đã, rồi tới lúc thấy rằng “không chừng
 bài này có thể viết nhanh”  thì mới vào cuộc thật sự. Bài nào mà càng 
viết càng thấy hào hứng  tôi mới tin là được.
          Có
 một kinh nghiệm tôi rút ra cho mình như sau. Thường tôi khổ tâm vì thấy
 mình đọc được ít quá, viết chậm quá, so với những người làm nghề chuyên
 nghiệp thực thụ ( chẳng hạn những người làm nghề phê bình  này ở các 
nước ngoài)  thì chẳng những về chất mà về lượng mình cũng kém xa. Nóng 
ruột, hay đúng hơn là lúc điên lên, tôi tự thả cho ngòi bút của mình 
viết liều viết vội. Chết một nỗi là sau đọc lại thấy  tất cả những thứ 
viết nhanh ấy đều đáng vứt đi. Hóa ra tạng của mình là viết ít và viết 
từ từ, chứ không thể viết nhanh như mọi người được, nên quay trở về theo
 lối cũ, thôi số phận đã vậy.
12_   Ông thích nhất tác phẩm nào của mình? Tại sao?
Có tác phẩm nào ông muốn quên đi?
          Khi Cây bút đời người
 được in ra và có dư luận, tôi nghĩ thế là mình có thể chết được rồi. 
Còn các cuốn khác, nếu bảo thích thì tôi vẫn thích, vẫn ao ước có ai in 
lại cho mình… nhưng không cuốn nào  gợi cảm giác như sau Cây bút đời người. Tại
 sao tôi nói thế. Vì, như một vài bạn đọc có lòng yêu mến tôi đã phát 
hiện, trong cuốn sách này tôi không chỉ phác họa chân dung người khác mà
 còn cho thấy chính mình. Tức là một thứ chân dung tự họa. Ôi ai mà chả 
mong như thế! 
          Còn tác phẩm muốn quên đi ? Đó là cuốn Bước đầu đến với văn học
 in ra năm 1986. Tập sách chỉ là một tập hợp rời rạc các bài  tôi viết 
trong những năm từ 1967 đến 1985. Không phải chỉ riêng các bài tôi in 
trong Bước đầu đến với văn học mà tất cả những gì tôi viết trong thời gian từ 1965 – khi tôi viết về tập Sức mới—đến
 trước 1986 đều  mang lại cho tôi một cảm giác dang dở, bỏ thì thương 
vương thì tội. Hai chục năm ấy là thời gian tôi học việc thì đúng hơn. 
Tôi chưa định hình nổi một quan niệm về văn học cũng như chưa có nổi một
 tiếng nói riêng. Lúc dựng Bước đầu đến với văn học tôi còn quá non nớt trong nghề soạn sách và chưa hình dung được bản thân mình. 
13_ Những kỷ niệm vui và buồn
trong đời phê bình của ông?
Nghề phê bình dễ tạo ra những va chạm.
Ông có e ngại khi viết không?
          Có
 thể nhìn vào thái độ quan niệm của một nhà văn với phê bình để hiểu ý 
thức về nghề của nhà văn đó. Tôi hiểu như vậy và tôi không lấy làm điều 
quá quan trọng  khi được đối xử thế này hay thế khác. Song dẫu sao, mình
 cũng là một con người , thì lẽ tự nhiên có vui có buồn .
          Tới giờ phút này tôi hình dung mình có thể viết hẳn một cuốn sách  mang tên đại lọai Đời tôi trong phê bình văn học, hoặc Hồi ký phê bình. 
          Kỷ
 niệm vui thì như thế này. Đầu 1968, Đại hội văn nghệ toàn quốc (chung 
cả các hội văn, họa nhạc, kịch) được tổ chức. Tôi nhớ lúc ấy Hà Nội đang
 còn trong tầm uy hiếp của bom đạn, nhưng không hiểu sao, hình như là 
đúng là vào dịp Tết ngừng bắn, nên vẫn làm đàng hoàng lắm. Khai mạc bế 
mạc ở Nhà hát lớn, và chiêu đãi ở nhà hàng Phú Gia. 
          Tôi lúc đó mới viết, trên giấy tờ là quân số ở một đơn vị pháo binh, chưa về VNQĐ, nhưng có may mắn được Phòng văn nghệ
 ( lúc ấy do nhà thơ Chính Hữu làm trưởng phòng)  cử đi, coi là một đại 
biểu chính thức dự đại hội.  Hôm chiêu đãi tôi ngồi cùng bàn với họa sĩ 
Nguyễn Đỗ Cung và nhà thơ Tế Hanh. Lần đầu gặp Tế Hanh, tôi được nghe  tác giả Nhớ con sông quê hương hỏi rất chân tình, bằng lối nói thủ thỉ thường có ở ông: --
 Vương Trí Nhàn này, ông làm phê bình, vậy ông thử cắt nghĩa xem tại sao
 có những tập thơ mình bỏ công làm vài năm mà vẫn không xong, chính mình
 không hài lòng, lại có những tập chỉ làm có vài tuần lại đứng được. 
Thuộc trường hợp thứ nhất là tập Tiếng sóng. Còn thuộc trường hợp thứ hai là hai tâp Nghẹn ngào trước 1945 và Gửi miền Bắc 1957.  Mình cũng không cắt nghĩa được!
          Tôi
 nhớ mãi câu chuyện này cả Tế Hanh.  Qua ông, tôi hiểu thế nào là một 
nghệ sĩ chân chính. Đó là những người luôn luôn băn khoăn về chính mình,
 luôn luôn mang mình ra đặt câu hỏi. 
          Về
 quan hệ cá nhân, tôi có cảm tưởng  như vậy là tôi được tin cậy, mà lại 
một nhà thơ tiền chiến tin cậy, tôi phải cố cho xứng. Nhưng đáng nói hơn
 là qua đây tôi hiểu một khía cạnh nghề nghiệp của người làm phê bình 
văn học: đó là người bạn đường của sáng tác cùng với người sáng tác cắt 
nghĩa mọi vấn đề đặt ra trong hành nghề.
          Thế
 còn những kỷ niệm buồn? Lại càng nhiều. Một vài chuyện tôi đã kể, số 
chưa kể đau xót cay đắng hơn . Nhưng ở đây xin phép chỉ nói một cảm giác
 chung.     
          Như trên đã nhấn mạnh, 
tôi viết phê bình xuất phát từ nhu cầu bản thân. Do muốn hiểu thêm sáng 
tác của người đương thời mà viết. Đúng hơn, do muốn qua các hiện tượng  
cụ thể đi tới chỗ hiểu thêm văn học mà viết. Nghĩa là tôi viết vì bản 
thân chứ không phải vì người khác. Bởi vậy, tôi chỉ chọn viết về những 
tác phẩm theo tôi là có vấn đề với nghĩa nó có những khía cạnh mà tôi 
quan tâm. Tôi không bao giờ viết về những tác phẩm dở, càng không bao 
giờ viết về những tác giả nhạt nhẽo. Thành ra không có va chạm vặt , 
hoặc có cũng ít. Nhưng sự tình là 
thế này: thường ngay trong một tác giả mà tôi cho là đáng viết cũng có 
mặt hay chen lẫn mặt dở, và đôi khi tính theo thời gian thì tác phẩm 
trước hay mà tác phẩm sau dở. Tôi buộc phải viết theo sự thay đổi trong 
cách hiểu của mình. Thế là sinh ra va chạm.
          Tôi nhớ có một họa sĩ đã tâm sự thế này ” Mỗi lần vẽ được một chân dung tạm gọi là thành công tôi đều mất bạn”.  
                   Đối với những sự va chạm do người ta cố ý không hiểu mình, thì tôi lắng nghe và chờ đợi chứ không tranh luận lại ngay. Kinh nghiệm của tôi là một thời gian sau, những cái đúng của mình thì người ta cũng hiểu ra. Nhưng
 dẫu sao sau sự va chạm, tình cảm hồn nhiên ban đầu không còn. Đây là 
tình hình đã xẩy ra với cả  hai người thầy và người bạn có tác động lớn 
đến cuộc đời làm nghề của tôi là Nguyễn Khải và Nguyễn Minh Châu.
 Chỗ chung của mối quan hệ tôi với hai nhà văn này là ban đầu các ông 
rất quý tôi chia sẻ với tôi nhiều điều, về sau thì ngán tôi và không còn
 trò chuyện tâm sự thân mật với tôi như những năm mới quen nữa. 
          Mỗi
 lần nghĩ tới tôi đều chạnh buồn. Nhưng sự phát triển  như thế hình như 
không phải do tôi muốn mà do cuộc đời này xui khiến, tôi sống mãi trong 
cái bóng của các bậc thầy cũ sao tiện! Có lần trò chuyện với các bạn trẻ
 tôi đã bảo ai cũng có ngày giã từ sư phụ xuống núi thì mới nên người được
14_   Tác phẩm văn học nào
gợi cho ông nhiều hứng thú nhất?  
          Cái gì hay tôi 
đều thích, số thích nhất rất nhiều thành thử với tôi không có cái nào là
 nhất nữa.Tôi tự thấy  phần lớn những gì mà thiên hạ thích thì mình cũng
 thích, chỉ có điều phải cố để viết về tác phẩm đó một cách nào đó, như 
là một cách phát hiện mới về tác phẩm đó.           
15_   Nhà văn nào
tạo được ấn tượng lớn nhất đối với ông? 
          Cũng tùy từng thời kỳ mà nói ai để lại ấn tượng nhiều nhất hoặc nói cách khác ai có mặt trong suy nghĩ của  tôi nhiều nhất. Khi mới vào nghề, tức  lúc tôi ở Văn Nghệ quân đội  thì Nguyễn Khải .Nguyễn Minh Châu là chân trời của tôi hình mẫu văn học lý tưởng mà tôi lúc đó quan niệm được. Lúc sang Hội nhà văn thì vai trò đó thuộc về Tô Hoài. Ông là cuốn từ điển  về văn học là điểm đối chiếu để tôi nhìn rộng ra những người khác. So với  ba ông  nói trên, tôi đứng cách Xuân Diệu một khoảng xa hơn và cũng không bao giờ có  thể nói  chuyện với tác giả Thơ thơ
 một cách thân tình và thậm chí như là suồng sã nữa. Tuy vậy, một vài 
năm gần đây khi tôi tìm cách  tính xem ai đã ảnh hưởng đến cách viết 
cách học hỏi và quan niệm văn chương của mình thì, như trong đoạn trả 
lời cho một câu hỏi ở trên đã nói, tôi luôn luôn trở về với Xuân Diệu.  
Xuân Diệu là một trong  số ít nhà văn VN viết có lý luận vừa viết vừa 
tìm cách khai phá ý nghĩa lý luận  trong sáng tác của mình cũng như của 
các đồng nghiệp. Tôi còn muốn viết tiếp về ông, với dụng ý từ ông  thấy 
cả văn học VN thế kỷ XX. 
          Tuy nhiên với một đời làm nghề khá 
tạp như tôi thì lại có thể nói là người để lại ấn tượng nhiều lắm, cả 
người sống lẫn người chết, cả người tôi đã gặp lẫn người tôi chưa gặp 
bao giờ. Có người ấn tượng về tác phẩm, có người ấn tượng về con người 
và cách sống. Các ghi chép có tính chất chân dung của tôi đánh dấu những
 phút ấn tượng trong tôi hiện hình.
          Ở 
ta  hay có lối coi Xuân Diệu là của nhà phê bình  này, Nguyễn Minh Châu 
là của nhà phê bình kia, và Nguyễn Huy Thiệp là của một người khác nữa. 
Tôi không phản đối. Nhưng tôi cho rằng vẫn có một Xuân Diệu, Nguyễn Minh
 Châu  Nguyễn Huy Thiệp và suốt cả từ Vũ Trọng Phụng, Thạch Lam, Nam 
Cao, Tô Hoài, Nguyễn Khải …của riêng tôi. Với mỗi nhà phê bình thực thụ,
 các nhà văn lớn luôn hiện ra với khuôn mặt mới. Các khuôn mặt này các 
chân dung này không loại trừ nhau, mà cùng làm giầu cho sự hiểu biết và 
yêu mến của  bạn đọc. Sau hết có một 
ghi chú tôi muốn nói thêm. Thường thì chất lượng sáng tác của nhà văn tỷ
 lệ thuận với sự hấp dẫn của mà con người của nhà văn đó để lại trong 
tôi. Nhưng nên nhớ là có những người  sống rất thú vị mà không tự ý thức
 được hết, không mang hết được từng trải vào tác phẩm. Họ là những kẻ 
thất bại rất đáng kính trọng.  Mặt khác, trong đời sống cũng vậy mà 
trong văn chương cũng vậy, cái gây hứng thú cho ta, nhiều khi không phải
 là cái tuyệt với chói sáng mà nhiều khi lại là một cái gì mờ mờ tôi tối
 trắng lẫn với đen, hay lẫn với dở. Theo nghĩa này, tôi đã quan tâm theo
 đuổi phân tích cuộc đời cách sống của ba nhà văn Nhị Ca, Xuân Sách và Nghiêm Đa Văn và có được mấy phác họa chân dung mà tôi ưng ý.  
       
16_ Trong tập Cây bút- đời người,
khi khắc họa về các nhà văn, ông đã miêu tảmột số thói xấu của họ. 
Cách làm này sẽ khiến người đọc thấy nhà văn cũng là những con người 
bình thường, có mặt tốt, mặt xấu nhưng mặt khác cũng làm cho người đọc 
cảm thấy thất vọng về những tác giả nổi tiếng mà họ rất ngưỡng mộ. Ông 
nghĩ sao về việc này?
          Tôi cho rằng thời mà độc giả coi nhà văn nhà thơ như ông thần ông thánh ban phát dạy bảo họ đã qua rồi. Nếu
 là những độc giả có trình độ thì ngay khi đọc tác phẩm và tiểu sử tác 
giả, họ đã có những thất vọng về nhiều nhà văn nhà thơ mà họ đọc, chứ 
đâu phải nhờ tôi gợi ý rồi họ mới thất vọng. Nhưng thất vọng về một người đâu có nghĩa là sẽ không quan hệ với người đó nữa. Ngoài đời là vậy mà trong văn chương cũng vậy.
          Tôi
  có cảm tưởng sau khi đọc một số bài tôi viết về một nhà văn  (chỉ kể 
những trường hợp tôi viết thành công), bạn đọc sẽ yêu thêm nhà văn nhà 
thơ đó, yêu những mặt tốt và xót xa thông cảm với những hạn chế của tác 
giả, từ đó có thể suy nghĩ sâu sắc thêm về cuộc đời này. Đấy cũng chính 
là mục đích tôi hướng tới.
          Sau đây là một ví dụ: Khi bài viết về Xuân Diệu (sau in vào Cây bút đời người)
 in ra, có nhiều người coi tôi là lật đổ thần tượng, láo, đả Xuân Diệu 
quá mạnh, thậm chí có người còn bảo tôi tàn nhẫn, người ta đã chết còn 
lật quan tài người ta lên mà nói. Nhưng cũng  có người hiểu khác. Đây là
 một đoạn nhà báo  Minh  Thi viết trên báo Lao động 20-6-2002
          Những
 trang sách của Vương Trí  Nhàn về một số nhà  văn ngùi lên những sự 
thương xót, những quý  mến cùng sự chân thành bộc lộ  suy nghĩ của mình.
 Tác giả đặt họ vào đời thường, đặt họ trong dòng chảy hiện thực và văn 
chương mà vẽ lại chân dung tính cách của họ. Thấu đáo, nhưng không tọc 
mạch; cách nói sâu tuy còn vẫn hơi đi vòng, cách nhìn của Vương Trí Nhàn
 đối với một số gương mặt tiêu biểu của văn học đương đại không xét nét,
 bắt bẻ, mà là một sự đánh giá khe khắt và đòi hỏi ở một mức cho phép. 
Có lẽ như thế đã là thú vị rồi.
           Tôi biết ơn những sự chia sẻ như vậy. Đọc xong, tôi tự nhủ: cứ chân thành mà viết rồi dư luận sẽ hiểu ra cho mình. 
17_
 Khi nghiên cứu về các tác giả cổ điển, ông chỉ tìm hiểu các tác giả 
Nguyễn Gia Thiều, Tú Xương, Hồ Xuân Hương, Tản Đà, Nguyễn Du, Nguyễn 
Công Trứ. Lý do ông chọn các tác giả này? Vì sao ông không tìm hiểu thêm
 về các tác giả như Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu…?
          Người
 ta hay nói khi phê bình cần khách quan. Tôi lại cho rằng phê bình mang 
đậm chất chủ quan của người viết.  Nhà phê bình không phải là cái cân, 
mang ra cân tác giả tác phẩm nào cũng cho kết quả chính xác. Mà chúng 
tôi cũng có quyền có thiên kiến, có sở thích riêng.  Không phải  tất cả 
những cái gì tôi thích mới hay, mà tôi không thích tức là dở. Không… 
Không phải thế. Cái tôi không thích và không viết vẫn có thể rất hay, và
 đã có những nhà phê bình khác viết về nó.  Tôi chỉ thích và viết những 
cái mà bên cạnh việc giới thiệu cái hay của chính đối tượng, tác giả và 
tác phẩm đó còn giúp tôi bộc lộ được suy nghĩ hiểu biết của chính tôi. 
Với văn học hiện đại cũng vậy mà văn học cổ điển cũng vậy. Sở dĩ tôi 
viết về Nguyễn Gia Thiều vì bắt gặp ở Cung  oán ngâm khúc một chất ba-rốc rất lạ, ít thấy ở văn học VN. Trong khi những người khác lưu ý chất dân gian của Nguyễn Du 
 thì tôi  đặc biệt thích ở ông  cái chất của một ngòi bút trí thức: đơn 
độc, đau đớn vì những vấn đề siêu hình và cảm giác bất lực. Với Nguyễn Công Trứ,
 tôi bắt gặp tính chất phân thân đầy mâu thuẫn của con người hiện đại, 
trong ông tôi nhận cả  hình ảnh một con người trò chơi mà giá kể có điều
 kiện tôi còn phải quay lại nữa. Đấy đại khái là thế. Trên nét lớn có 
thể nói tôi thường quan tâm tới khía cạnh nhân văn trong con người cũng 
như sáng tác của một tác giả cả đương thời lẫn cổ điển.
   
18_
   Khi phê bình về các nhà thơ, ông dành nhiều trang viết của mình cho 
các nhà thơ của phong trào Thơ mới. Nhận xét của ông về phong trào này 
và ý nghĩa của nó trong đời sống văn học hiện nay?
          Thơ mới là loại thành tựu chỉ xẩy ra một 
hai lần trong lịch sử văn học một dân tộc. Nói gọn lại một câu là đến 
nay chúng ta chưa ra thoát khỏi Thơ mới, chưa đi xa hơn thành tựu của 
các bậc thầy Thơ mới bao nhiêu. Nhưng để chứng minh cho nhận xét cảm tính này, còn phải làm việc nhiều, tôi hiện không đủ sức.  
19_ Với Xuân Diệu,
ông chỉ chú ý về phần phê bình.Tại sao?
               Không
 đúng đâu. Cuối năm 2007, tại cuộc hội thảo nhân 90 năm sinh Xuân Diệu, 
tôi đã có một tham luận nhìn nhận chung  đóng góp của tác giả với Thơ mới. Trước đó, tôi có một bài viết về thơ tình về con người riêng tư trong thơ Xuân Diệu sau 1945.
20_
   Trong 3 giai đoạn văn học: 1900-1945, 1945-1985, 1985-nay, ông nghĩ 
là giai đoạn nào, văn học, nói chung, và phê bình văn học, nói riêng, 
phát triển thuận lợi nhất? 
          Vì đến nay –đầu thế kỷ XXI, văn học ta vẫn 
 còn là một nền văn học tự phát mà chưa tự ý thức được chính xác về 
mình—cái phần tự ý thức đó  chính là do phê bình đảm nhiệm.
          Ở
 những nền văn học hiện đại, giữa phê bình và sáng tác có một sự cân đối
 trên mọi phương diện: trên số lượng tác giả; trên số lượng tác phẩm đã 
in ra; trong sự quan tâm và kính trọng của độc giả cũng như sự quan tâm 
và kính trọng lẫn nhau của hai lớp người đó. Lưu ý là tôi nói sự cân đối
 trong tương quan, chứ không phải một sự ngang bằng số học.  Nhưng, một 
cách tuyệt đối, tôi vẫn tin là ở những nền văn học phát triẻn đúng chuẩn
 mực, phê bình được chú ý hơn ở ta, thu hút được nhiều tài năng hơn do 
đó có đóng góp vào việc xây dựng văn học ngày một tích cực hơn.
          Bớt
 số lượng người sáng tác kém cỏi đi, thêm người tự nguyện đi vào  phê 
bình – tức là tăng cường chất nghiên cứu cho một nền văn học. Làm thế, 
các nhà sáng tác còn lại sẽ có điều kiện để sáng tác tốt hơn.
          Người
 ta hay nói sáng tác hiện nay chỉ có nền mà không có đỉnh. Bởi nay là 
lúc bản năng đã bị khai thác cạn kiệt và cái cứu vãn chúng ta là lý trí 
là hiểu biết – với từng người cũng vậy mà với cả nền văn học cũng vậy --
  nên có thể nói đầu tư cho phê bình là phương sách duy nhất để đưa một 
nền văn học tới những đỉnh cao mới.
          Có
 một lý do khiến cho điều này khó thực hiện: khi ấy một số người yêu văn
 học  phải chấp nhận hy sinh cái riêng vì cái chung, có thể đi làm những
 việc nào đó như biên tập biên sọan, dịch sách và viết phê bình, để đưa 
trình độ cả nền văn học tiến lên. Còn nhà sáng tác phải hiểu rằng trong 
thành tựu của mình có phần đóng góp của người khác. Cả công chúng cũng 
cần phải học để biết trân trọng những người sống trong bóng tối.
          Còn lâu lắm, ở ta mới hình thành một sự phân công khôn ngoan và những mối quan hệ hợp lý như vậy. 
       
21_
 Hiện nay có rất ít bài phê bình viết về
các tác phẩm của các nhà văn 
trẻ đương thời.
Vậy phê bình phải làm thế nào để góp phần
vào sự phát 
triển của văn học trẻ hiện nay?
          Cũng nên nói thêm là sở dĩ từ mươi mười lăm
 năm nay, tôi sớm chọn con đường trên, một phần là vì thấy nhiều  nhà 
văn trẻ có lối nghĩ rất lạ. Họ hiểu phê bình chỉ là nói đến từng người 
trong họ. Những vấn đề chung của văn học bị họ xem thường. Họ không muốn
 hiểu những gì ngoài họ, không muốn hiểu quá khứ. Nhiều người quá thực 
dụng. 
          Có vẻ như họ hay nghĩ thế hệ 
trước chẳng ra gì và nay đã hết thời rồi, nay đến lượt họ. Vâng tôi  
cũng nhận là nhiều người đi trước bọn tôi “chẳng là cái đinh gì”,   do 
gặp thời mà có tên có tuổi.  Nhưng sao các bạn trẻ không nghĩ tới những 
mục tiêu to lớn hơn so với những nhân vật kỳ vĩ hơn. Thời đại bây giờ mở
 ra rộng rãi lắm mà cũng yêu cầu cao lắm. Tôi trông chờ ở những người trẻ có khát vọng lớn. Đó mới là cái đích của sự phát triển văn học trẻ. 
          Thật
 là nhầm khi nghĩ rằng chỉ những ai có  viết về văn học trẻ mới là người
 quan tâm đến họ. Chính là khi viết về sáng tác của các thế hệ trước, 
các nhà phê bình lớp tuổi cao niên cũng đang tìm cách đóng góp cho lớp 
trẻ đấy chứ! Cũng như khi tôi viết một số bài về văn học nước ngoài ( 
trong một số bài giới thiệu đặt ở đầu những cuốn sách dịch), đâu tôi có 
nghĩ là có lúc nó đến tay nhà văn nước ngoài  -- đối tượng  mà tôi “ phê
 bình”, mà chính ra tôi xuất phát từ văn học VN mà viết, đối tượng chinh
 phục của tôi là các nhà văn trong nước.     
22_
   Theo ông, độc giả hiện nay
có vai trò như thế nào đối với nhà phê 
bình?
Và trách nhiệm của nhà phê bình hiện nay
đối với độc giả? 
          Khi
 viết cố nhiên tôi cũng nghĩ đến độc giả. Đó là một loại độc giả lý 
tưởng. Họ có những quan tâm tương tự như những quan tâm của chính tôi. 
Họ rất hiểu biết nên rất khó tính. Tôi chỉ chinh phục được họ nếu viết 
thật tốt.
          Loại độc giả này hiện nay 
rất ít. Nhưng những mầm mống của họ thì bao giờ cũng còn. Thành thử tôi 
cho rằng công việc của nhà phê bình lại bao gồm cả việc đánh thức cái 
phần thường bị quên lãng đó trong lòng mọi độc giả thông thường. 
 
Tháng ba—tháng năm 2010


 
 
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét