Ngày Tết nhàn đàm cùng GS_TS Trần Văn Khê
Nhân dịp Xuân về, thầy Đỗ
Hồng Ngọc dẫn chúng tôi tới thăm sức khỏe GS Trần Văn Khê, tôi vô tình bị cuốn
vào câu chuyện “trà dư tửu hậu” giữa GS Trần Văn Khê và BS Đỗ Hồng Ngọc. Mở đầu
câu chuyện, BS Đỗ Hồng Ngọc “khơi mào” về việc cuộc thi hoa hậu thế giới chuyển
từ TP biển Nha Trang về chốn miệt vườn Mỹ Tho, quê hương của GS (Giờ chót nghe
nói đã hủy bỏ kế hoạch này!)
GS Trần Văn Khê cho biết
về mặt địa lý, hành chính thì ông không biết như thế có nên không hay cồn Thới
Sơn có chứa đủ số lượng người tham gia không nhưng về mặt quảng bá cho du lịch và
kinh tế thì theo ông là nên.
BS Đỗ Hồng Ngọc: Vậy theo chú nếu thi hoa hậu ở chốn miệt
vườn thì nên cho thi các tiết mục nào thì hấp dẫn?
GS Trần Văn Khê: Tôi rất
thích cái áo bà ba của người con gái Nam bộ nhất là cái áo bà ba đen khăn rằn,
tượng trưng cho người phụ nữ Việt Nam đảm đang, kiên cường trong chiến đấu cũng
như trong thời bình. Áo bà ba đen mang một vẻ đẹp tinh thần rất khác biệt so
với các loại trang phục khác. Vì vậy nên cho hoa hậu thi trang phục… áo bà ba
ngoài áo dài truyền thống.
Vùng mình còn có nhiều
nếp sống đẹp khác như róc mía, chặt dừa, chống xuồng ba lá… Cũng hay đó chớ.
Thi mấy cái đó làm cho thế giới để ý biết được cuộc sống vùng thôn quê Việt Nam mình.
BS Đỗ Hồng Ngọc: Chắc cũng nên cho mấy cô thi mặc áo dài đi
qua cầu khỉ và lội mương bắt cá nữa chú ạ! Nhân nói tới cái hay của vùng sông
nước Nam bộ, chú cho biết thêm
những cái hay khác của người miền Nam mình…!
GS Trần Văn Khê: Miền Nam sinh sau đẻ
muộn, có câu ca nói về điều kiện sống thuở khai hoang lập ấp:
“Chèo xuồng
sợ sấu cắn chưn,
Xuống nước gặp đĩa, lên rừng gặp ma”
nên làm chuyện gì cũng có sự sáng tạo.
Ngay cả cái ăn, người
miền Nam ăn đủ thứ rau, từ bắp chuối, hoa chuối, đọt chuối… đến các món rắn,
rùa, cào cào… Cả con sùng, chuột đồng cũng ăn luôn. Điều đó thể hiện tính chất
thôn quê, hoang dã nhưng có sự sáng tạo, thích nghi với hoàn cảnh sống.
Cái sự sáng tạo trong
cách ăn của người miền Nam
có rất nhiều thứ để nói. Cũng con cá nhưng được chế biến đủ kiểu: kho, chiên,
làm khô, làm mắm… Kho cũng có nhiều kiểu kho: kho tộ, kho khìa, kho quẹt, kho
mặn… Chiên thì chiên thường, chiên khô, chiên cháy vảy, chiên xù…
Cái sự thích nghi thì
khỏi phải chê. Bún nước lèo ăn với mắm bò-hóc của người Khmer, người miền Nam thì có bún nước
lèo nấu cá thành bún mắm. Ấn Độ có món cà-ri, người miền Nam cũng nấu
cà-ri nhưng với nước cốt dừa chứ không nấu nị. Pha thêm chút nước, khoai tây…
cho phù hợp với khẩu vị của người mình. Món canh chua của người miền Nam đặc biệt
không hề giống kiểu của người Thái. Món của người ta nhưng nghệ thuật của mình
là chỗ đó.
Cái “ăn” của người Nam bộ quan
trọng đến nỗi nói đến cái gì cũng kèm chữ “ăn”: ăn mặc, ăn nói, ăn ở, ăn nằm, ăn chơi… Cái ăn vận vào
cả nghệ thuật. Nói về thanh và sắc, cái
giọng cao, thanh, vang, người Nam nói “ca ngọt”, lỡ mà cao quá thì “giọng hơi chua”,
giọng mà mạnh cộng thêm lỡ lên hơi cao quá thành ra “chát”. Đờn lên dây hợp với
giọng thì kêu bằng “ăn dữ ha” hay xuống
“nghe thiệt mùi”. Ẩm thực của người
miền Nam
vì thế có thể tóm gọn ở ba sắc thái: hoang dã, sáng tạo và thích nghi.
Cái gì người miền Nam cũng dám
thử và thử cho đến khi thành công nhưng với một thái độ hết sức tự nhiên và một
tấm lòng cởi mở không ngại khó.
(Theo: dohongngoc.com)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét