"Nam quốc sơn hà"
-
Một bài "Thi Hịch" độc đáo nhất trong quân sử cổ kim -
“Nam quốc sơn hà”
là một bài thơ đã được dạy học tại các cấp lớp một hai tại Việt nam từ xưa tới
nay, ngay cả thời Pháp thuộc lớp đàn anh chúng tôi cũng đã học bài này. Với bản
phiên âm sai tại ngay câu thứ hai mà thế hệ tôi bao đời nay đều thuộc theo sách
của cụ Dương Quảng Hàm.
"Tiệt
nhiên định phận tại
thiên thư" đã làm giảm cấp tình tự dân
tộc Lạc Việt nhiều lắm!. Nay buộc phải gút lại cho đúng. Nhất là sách giáo khoa
và các trang mạng. Phần lớn người Việt có cắp sách đến trường đều thuộc, có thể
họ không hiểu hết ý vì có các từ cổ và khí phách người xưa nay không có sách vở
nhắc lại, hoặc do vì trình độ của quý thầy cô, hoặc do vì không có nhiều tư
liệu để tham khảo thêm. Do bài Nam
quốc sơn hà quá nổi tiếng, số người ăn theo như những "tên đốt đèn"
nhân vật hắc ám nổi tiếng trong văn học Roma. Họ bằng mọi cách tấn công vào
danh tướng Lý thường Kiệt bằng cách này hay cách khác. Nay laiquangnam xin viết
lại, chuyện đúng sai mong Bạn đọc tự cho điểm và tự nhận xét. Vấn đề là không
phải để hơn thua, mà là bài " Nam quốc sơn hà" nay cần phải giải
quyết gấp những tồn tại một cách dứt điểm, để mỗi khi "ai đó" cần
giới thiệu với người nước ngoài thì người giới thiệu không hề bối rối và cùng
vui với tiền nhân. Rất mong mọi ý kiến phản hồi để chúng ta sang trang việc
tranh luận này và đi tìm một bản dịch khả dĩ có thể chấp nhận được bởi trong
gần một thế kỷ nay vẫn chưa có bản dịch nào khiến chúng ta tạm hài lòng.
Tam ngu thành
hiền! Laiquangnam viết được, có ý kiến
được, thì các bạn của tôi còn làm giỏi hơn tốt hơn tôi 1000 lần. Mong lắm thay !
Dựa trên những dẫn chứng
văn học, ta có thể nói rằng Nam
quốc sơn hà là một bản văn hịch Thơ rất độc đáo của người Việt. Nó ngắn gọn, dễ
thuộc, và không cần phải "khoa ngôn, lộng ngữ" như trong hịch Tàu bởi
người trong cuộc đã từng kinh qua chiến trận với kẻ thù và họ đã từng thắng
lợi. Lời thơ Hịch của Lý tướng quân đã được bảo đảm bằng vàng.
Ai
là tác giả thật sự
Xin đọc một bản hịch
khác, bài hịch "Phạt Tống
lộ bố văn", do Lý tướng quân cho truyền bá trên đất địch vào năm 1075, trong đó có đoạn :
"Trời sinh ra dân chúng, vua hiền tất hòa mục. Đạo làm
chủ dân, cốt ở nuôi dân. Nay nghe vua Tống ngu hèn, chẳng biết tuân
theo phép thánh, lại tin kế của An Thạch tham tà, bày những phép
"thanh miêu", "trợ dịch" khiến trăm học mệt nhọc lầm than,
mà riêng thoả mãn nuôi mình béo mập. Bởi trăm tính mệnh muôn dân, đều phú bẩm
tự trời, thế mà bỗng sa vào cảnh éo le độc hại, lượng kẻ ở trên cố nhiên
phải xét.
Nhưng việc từ trước thôi không nói gì. Nay bản chức vâng mệnh
quốc vương, chỉ đường tiến quân lên Bắc, muốn dẹp yên làn sóng yêu nghiệt,
chỉ có ý phân biệt quốc thể, không phân biệt chúng dân. Phải quét sạch nhơ
bẩn hôi tanh để đến thưở ca ngày Nghiêu, hưởng tháng Thuấn thanh bình.
Ta nay ra quân, cốt để
cứu dân khỏi nơi chìm đắm. Hịch văn truyền tới, để mọi người cùng nghe. Ai nấy
hãy tự đắn đo, chớ có mang lòng sợ hãi." (5)
Chỉ có khẩu khí của một
danh tướng như Lý thường Kiệt mới nói ra được câu "Nay nghe vua Tống ngu
hèn". Hẳn là vua tôi nhà Đại Tống cùng cảm thấy bực tức và nhục. Giọng
hịch đều như vậy cả.
Theo thông lệ xưa nay,
người tư lệnh chiến trường được hưởng quyền tác giả qua những bản nhật lệnh hay
những bài diễn văn hùng hồn trước binh sĩ mình, kể cả những chiến thắng qua
từng trận đánh cho dù người trực tiếp tham gia là binh sĩ thuộc cấp dưới quyền.
Họ chịu trách nhiệm về mọi diễn tiến xấu và tốt xảy ra trên chiến trường. Ngày
ấy Lý thường Kiệt chịu trách nhiệm tất cả các hành vi tiến hành chiến tranh với
Tống triều.
Không ai có quyền cướp
bản quyền nay đã ghi đậm nét dấu ấn của Lý tướng quân qua bài thơ hịch Nam quốc
sơn hà lừng danh trong quân sử, trừ khi ai đó tìm được văn bản thật sự được
viết vào thời điểm 1076 có tên tuổi tác giả đầy đủ. Mọi ý kiến ngược lại khi
nêu câu hỏi, thay vì nói "Có ai chứng
minh được Lý thường Kiệt là tác giả đâu ?" để gạt Lý
thường Kiệt sang bên thì tai sao họ không đặt câu hỏi "Có ai tìm được văn bản gốc của một tác giả cụ thể
nào để bác quyền tác giả của Lý tướng quân theo thông lệ đâu mà nghi ngờ Lý thường
Kiệt không phải là tác giả?". Những
kẻ có chút học thức bậy bạ thường có tư tưởng ấm đầu, thường mang tư tưởng của
những "kẻ đốt đền" mong tìm chút danh khi phả nọc vào lịch sử dân tộc
ta. Đốt đền lịch sử dân tộc là một tội ác! Tại sao dựa vào câu viết của sử gia
vào thế kỷ thứ 13 khi mà ngày ấy quyền tác giả không được mấy quan tâm, khi mà
nhà sử học luôn luôn nghĩ rằng những gì thuộc về chính thống, có chính nghĩa
luôn luôn có thần nhân ủng hộ và độ trì. Trong sử ngày ấy, tiền nhân ta còn mô
tả có hiện tượng rồng bay trên kinh thành Thăng Long. Bạn có tin thơ thần là do thần sáng tác?. Họ đã hiểu sai
hai chữ thơ thần. Xin xem đoạn lịch sử
đánh Tống tiếp theo bên dưới.
Bài thơ tứ tuyệt với 28
chữ bên trên chỉ được dịch sang quốc văn với một bản dịch tốt nhất cho thế hệ
mai sau một khi mà lớp chúng ta cùng xác nhận văn thể của nó một cách rõ ràng.
Một khi đã coi nó là một "bài thơ" thất ngôn tứ tuyệt như thông lệ
thì bản dịch phải có chất thơ đó là đòi hỏi của một lớp người thưởng ngoạn
"!" nào đó.
Một khi nó đã là bản văn
"tuyên ngôn độc lập" thì nó phải có thư ngôn ngữ hàm súc thể hiện bản
sắc văn hóa đầy bao dung của dân tộc Việt. Nó không phải là một bản văn tuyên
ngôn độc lập bởi nước ta đã dành đôc lập từ thời Ngô vương Quyển, 938 tính đến
1076 đã có trên dưới 150 năm liên tục sống trong cảnh thái bình.
Một khi nó đã là một bài thơ Hịch cô đọng thì
nó tất phải có ngôn ngữ đầy tự tin lẫn khí phách đấu tranh sinh tồn lẫn lời mạt
sát, hạ nhục kẻ thù, bản Nam quốc sơn hà có đầy đủ thứ ngôn ngữ này.
Và việc tối cần thiết
trước khi dịch là ta phải xác quyết tác giả của nó thật sự là ai. Người khí
phách ngang tàng thì có ngôn ngữ "ngang tàng", lời nói đi đôi với
việc làm đó là tính nhất quán rất đôc đáo của sĩ phu đời Lý Trần. Họ rất quyết
liệt trong trong hành xử nên trong văn luôn có cả máu và lửa! Có cả thơ lẫn nụ
cười bởi họ xem kẻ thù là kẻ dưới tay, vấn đề là thời gian " để xuống tay! Chỉ
có Lý tướng quân mới có ngôn ngũ kẻ cả như vậy.
Nay vấn đề nêu trên đã
được giải quyết một cách rõ ràng. laiquangnam tin rằng sẽ có những bản dịch
khác của lớp sau sẽ được giới thiệu bằng thứ ngôn ngữ đặc trưng của dòng thơ Hịch
rất độc đáo của người Việt, mang màu sắc riêng của dân tộc ta, với thứ ngôn ngữ
ngày nay tương hợp hơn với lớp trẻ hơn. Một bản dịch ra thơ quốc âm có hồn sẽ
song hành cùng bản dịch Anh ngữ đang rất cần thiết trong lúc này để giới thiệu
khí phách của tiền nhân ta, và đất nước ta.
Mỗi tác giả sáng tác đều
có bản sắc riêng và có một khẩu khí đặc trưng rất khác người. Mỗi thể văn
chuyển tải ý người xưa ắt phải có một thứ giọng ngôn ngữ phù hợp với văn thể
ấy; chỉ có thế thì lời văn của người xưa sẽ xông thẳng vào tâm hồn người đọc,
bài Nam quốc sơn hà sẽ lưu truyền mãi trong hồn dân tộc Việt, nó tan vào tâm
hồn người Việt đang sống tại khắp nơi trên trái đất này. Nó khiến cho họ sống
lại những phút giây hào hùng của tiền nhân. Xin Bạn đọc cố gắng thuộc nguyên
tác và hiểu rõ các từ nho đã cổ. Cần học thuôc nguyên tác để còn có lúc cao hứng ngồi dịch
lại và giảng cho cháu con mình nghe. Rằng ông bà ta ngày xưa khí phách như thế
đó !
Bối
cảnh ra đời của bài “Nam
quốc sơn hà”
Đoạn văn dưới đây nay
laiquangnam xin viết gọn lại phần có liên quan đã được chính sử ghi lại :
"Từ nhà Đinh, nhà Lê
trở đi, tuy Tàu không sang cai-trị nước ta nữa, nhưng vẫn cứ lăm-le có ý muốn
xâm-lược. Đến khi vua Thần-tông nhà Tống (1068-1078) có quan Tể-tướng là Vương
an Thạch đặt ra phép mới để cải-tổ việc chính-trị nước Tàu. Nguyên nhà Tống bấy
giờ bị nước Bắc-liêu và nước Tây-hạ ức hiếp, hằng năm phải đem vàng bạc và lụa
vải sang cống hai nước ấy. Mà trong nước thì không có đủ tiền để chi dụng. Vua
Thần-tông mới dùng ông Vương an Thạch làm Tể-tướng để sửa-sang mọi việc, ( sđd
1). Khi Tân pháp của Vương An Thạch đem ra thi-hành ra thì dân nước Tàu đều lấy
làm oán-giận, vì là trái với chế-độ và phong-tục cũ. Vương an Thạch lại có ý
muốn lập công ở ngoài biên, để tỏ cái công-hiệu viêc. cải-tổ của mình. Bấy giờ
ở Ung-châu có quan tri-châu là Tiêu Chú biết ý Vương an Thạch, mới làm sớ tâu
về rằng: nếu không đánh lấy đất Giao- châu thì về sau thành một
điều lo cho nước Tàu. Vua nhà Tống nghe
theo, lại thêm Thẩm Khởi tâu bày mọi lẽ nên đánh Giao-châu. Vua nhà Tống thuận.
Thẩm Khởi ra thu-xếp mọi việc theo ý Vương an Thạch, Sau Tống-triều thay Thẩm
Khởi cho Lưu Gi ra thay. Lưu Gi sai người đi biên các khe ngòi, các đồn-lũy,
sửa binh-khí, làm thuyền-bè và lại cấm không cho người ở châu huyện gần đấy đi
lại buôn bán với người Giao-châu.
Bên Lý-triều ta thấy sự
tình như thế mới viết thư sang hỏi Tống-triều, thì Lưu Gi lại giữ lại không đệ
về kinh.
Suy việc cũ năm 1067 vua Tống phong vương cho vua Lý, tước hiệu là Nam
bình Vương, vậy mà tại sao năm 1073 lại phong cho vua Lý là Giao chỉ quận
vương, hàm ý gì vậy ?. Coi nước ta là thuộc quốc chăng ?. Việc đã rõ, Lý thường
Kiệt tức giận. Vậy là nhà Tống đã xách mé và có ý đồ khi hạ thấp và xem thường
vua Lý. Giao Chỉ Quận Vương, nghĩa là coi vua nước ta là vương của một quận
thuộc địa như thời lệ thuộc Trung quốc xa xưa. Giao chỉ là quận nhỏ tại đất
Giao Châu. Lý thường Kiệt trước đó đã gạt Lý đạo Thành sang bên, cho vào trấn
thủ Nghệ An, lên thay quyền tướng quốc, tự tay lo việc nước. Lý thường Kiệt là
người rất quyết đoán trong hành xử và điều hành quốc gia. Ông tinh ý và chuẩn
bị các bước tiến hành chiến tranh với Tống. Lý tướng quân chuyển giao lại vai
trò tướng quốc cho Lý đạo Thành còn mình thì đích thân huấn luyện binh đội và
xin cầm quân sang đánh Tống. Vua thuận, phong Lý thường Kiệt làm tướng chinh
phạt có phó tướng là Tôn Đản phụ trợ. Họ chỉ huy 10 vạn tinh binh chia ra làm 2
đạo. Thủy binh do Lý tướng quân chỉ huy, bộ binh do phó tướng Tôn Đản chỉ huy
cùng tiến sang đánh nhà Tống. Lý Thường Kiệt đánh chiếm nhanh gọn các châu
Khâm, Liêm; Tôn Đản chỉ huy quân bộ hạ thành châu Ưng khó khăn. Vua Tống lệnh
cho Đô giám Quảng Tây nhà Tống là Trương Thủ Tiết đem quân đến cứu.
Thường Kiệt đón đánh ở cửa ải Côn Lôn (nay là phủ Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây của
nhà Minh) chém Trương Thủ Tiết tại trận. Biết đạo quân cứu viện đã bị
đánh tan tành, tuyệt vọng Đô Giám Ung châu tử tiết cùng gia đình. Hạ xong
thành, Lý Thường Kiệt thu quân về, bắt sống người ba châu ấy đem theo về để làm
con tin về sau nếu Tống phục hận". Quả nhiên Tống động binh đánh trả thù.
Năm 1076, (tức đời Tống
Hy Ninh năm thứ 9). Mùa xuân, tháng 3, nhà Tống sai Quách Quỳ, tuyên phủ sứ
Quảng Nam (Quảng Nam này là địa danh, là đất của Tàu trùng tên với tỉnh Quảng
Nam của Việt nam có sau năm 1475 là đất của Chiêm thành ) làm Chiêu Thảo sứ,
Triệu Tiết làm phó, đem quân 9 tướng, hợp với Chiêm Thành và Chân Lạp sang xâm
lấn nước ta. Ba mặt giáp công. Trong lần đánh phục hận này, Quách Quỳ nhận sứ
mệnh phải đánh " chết bỏ " hầu rửa nhục cho Đại Tống. , Quách Quỳ vào
trận với sự ủy thác "đánh phải thắng bằng mọi giá ", "đánh phục
thù ", "đánh vuốt mặt" cho Tống Triều và "đánh làm quà cho
tể tướng Vương an Thạch ", chứng minh đường lối cải cách theo Tân pháp của
tể tướng Vương an Thạch đã thành công, "đánh tan giao châu của Đại Việt
" nhằm thị uy với các nước phương bắc láng giềng của Tống. Thế nên khí thế
tấn công của quân Tống rất mạnh. Không bao lâu sau họ đã đến bờ bắc của sông
Như Nguyệt, cách kinh thành Thăng Long chừng vài chục dặm, khoảng chừng 60 km
về phía bắc. Quân ta vất vả giữ vững trận địa. Quân Tống dùng súng bắn đá bắn
xối xả vào bờ nam làm thuyền bè ta bị vỡ nát không ít. Hai hoàng tử đã hy sinh
và vài tướng cũng bị tử thương. Thương vong cao. Lý tướng quân đã dùng diệu kế
là cho đọc bản thơ Hịch lời thơ ngắn gọn, thời điểm công bố là trong một đêm
trăng dưới làn mưa đá xối xả được bắn ra từ bên kia bờ bắc của sông Như Nguyệt,
từ quân của viên tướng sừng sỏ Quách Quỳ. Khí thế địch thật hùng hổ. Tại chiến
trường sôi động ấy Lý tướng quân thấy rằng bài hịch không thể viết dài, khó
nhớ, không thể đọc trước hàng quân như thông lệ năm xưa qua đánh Tống mà phải
khéo chọn. Ông kỷ lưỡng chọn điểm phát ngôn là từ một ngôi miếu vốn nổi tiếng
linh thiêng, "đền thờ thần sông " nằm ở phía nam sông Như Nguyệt, đền
thờ hai vị anh hùng Trương Hát &Trương Hống, vốn là hai võ tướng dưới thời
Triệu Quang Phục. Thật là một diệu kế của một danh tướng. Trong thế trận tưởng
đã nghiêng về phía quân Tống, bỗng
đảo chiều khi binh sĩ nghe bài thơ phát ra từ miếu thần, viết "
Một đêm quân sĩ chợt nghe ở trong đền của Trương tướng quân là thần
sông Như nguyệt, có tiếng đọc to rằng:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên phân định tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!
(Trần Trọng Kim đã sơ ý dẫn sai thứ tự
tại câu 2)
Khí thế quân Nam trở nên
bừng bừng như có thần nhân hổ trợ và quân Tống lấp tức bị chặn lại. Tống quân
bị tổn thất nặng nề. Quân Tống tiến thoái lưỡng nan từ dạo ấy. Lý tướng quân đề
nghị giảng hòa nhằm giảm sự khổ đau cho nhân dân. Quách Quỳ thấy kéo dài là
thua chắc nên thuận lui binh. Khi đọc sử xưa tỉ như ĐVSKTT ta chỉ thấy các sử
gia kể chuyện từng ngày, ghi sự kiện, mà không triển khai những nguyên nhân sâu
xa dẫn đến chiến thắng ấy. Với họ chính bài thơ làm khí thế quân Nam tăng lên
như một phép thần mà không hề phân tích tại sao nó là bài "thơ thần",
bởi theo họ chỉ có thần nhân mới tài tình tạo ra bài thơ như thế, đổi nguy
thành an trong thoáng chốc.
Tại sao “Nam quốc sơn hà” là bài thơ thần
Thơ thần là bài thơ như
có sức mạnh Siêu nhiên đổi cả một cục diện trận đánh. Như đã chứng minh bên
trên, đây là bài thơ hịch theo phong cách riêng của người Việt nam , và tác giả
không ai khác hơn là Lý thường Kiệt.
Câu 1 nêu công lý muôn
đời
Nam quốc sơn hà nam đế cư
Đó là câu công lý bởi năm 1054 vua Lý Thánh Tông đã đặt tên
nước ta là Đại Việt, tính đến năm 1076 đã được 22 năm.
Sau khi Lý thường Kiệt
mất, câu
Nam quốc sơn hà nam đế cư
Thành câu kinh nhật tụng
trong suốt dòng lịch sử dân tộc ta.
Câu 2
Tiệt nhiên phân định
tại thiên thư
- Tiệt nhiên [ 截 然. ] phân biệt rõ ràng đâu ra đấy
không dính dáng gì với nhau nữa. Tiệt là cắt lìa ra, nhiên là vốn dĩ là như
thế.
- Phân định [ 分定 ] sau
một ngàn năm dành giật và trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng năm xưa, Ngô
vương Quyền đã cho nhà Nam Hán biết thế nào
là vàng là đá tính đến thời Lý tướng quân đã trên dưới 150 năm rồi. Việc phân
định [ 分定 ] nay coi như đã ổn.
- Thiên thư, Sách Trời
(Trời là đấng, là người lập nên thế gian này), nhất là người Tàu vốn đã tôn
Khổng tử là thánh nhân, đạo của Khổng là cô đúc trong câu, "sống là phải
biết nương theo đạo Trời" , thuận lòng Trời là yên, nghịch lòng Trời là
loạn lẽ nào lại vua Tống ngày nay lại không rõ tiền nhân họ. Lý tướng quân mắng
vua Tống ngu hèn là phải đạo.
Lý tướng quân đã lý luận
những gì đã được "phân định " tại sáchTrời ấy mà dân Lạc Việt ta đã
đấu tranh dai dẳng với bọn Tàu phương bắc từ hơn 1000 năm trước để đến năm 938
thì Ngô Vương Quyền đặt nền móng độc lập lâu dài sau trận thủy chiến năm xưa. Nước
ta luôn luôn thắng địch bằng thủy chiến. Chiến tranh trên đường thuỷ luôn có tính quyết định ; trong trận đánh năm
xưa 1075, chính Lý tướng quân đã đích thân chỉ huy chiến thuyền đánh vào châu
Liêm giải quyết gọn nhẹ về phần mình, trong khi cánh lục quân do phó tướng Tôn
Đản người Tày đánh châu Ung thì chậm lụt hơn, cuối cùng Lý tướng quân đã phải
hổ trợ sau khi chém tướng tư lệnh đạo quân Quảng tây mang sang cứu viện là Trương
thủ Tiết (8) tại ngay mặt trận thì thành Ung Châu mới hạ được, Lý thường Kiệt
hoàn thành cuộc chinh phạt. Độc lập chưa đầy 150 năm, mà Lý triều với Phật
giáo là quốc giáo sao lại làm được kỳ tích như vậy. Có khi nào Bạnlà con
dân Lạc Việt nghĩ về nó với sự trăn trở sự ươn hèn của tổ quốc ta bắt đầu từ
thời Thiệu trị 1858 chăng ?. Năm xưa Hai Bà thua vì không có sức mạnh của
thủy binh nên ngưuĐầu MãViện đã đổ bộ lên đất Giao châu bằng đường thủy(năm 40
scn) như chỗ không người; rồi Trương Phụ (1407) cũng huy động thủy binh hùng
mạnh sang trấn áp nước ta, cho nên từ "ba
Tàu" là từ
cảnh giác dân tộc này từ ngàn năm trước.
Mặt biển đông luôn là
hướng quyết định cuộc chiến sinh tồn của dân tộc này trước sự xâm lăng của ba Tàu
phương bắc. Nhiều lần mất nước hoặc từ sự lơ là hoặc là do yếu kém vì ngân sách
quốc gia huy động vào việc xây lăng tẩm cho vua là một trong các điều xấu xa
nhất do triều Nguyễn Gia Miêu cấy vào đầu óc người Việt. Thiếu ngân sách, tiêu
pha phung phí bỏ mặc thủy binh suy yếu, ta mất nước cho bọn Tây cũng từ đường
thủy mà ra. Năm 1862 Mất miền đông, năm 1874 mất miền tây, 1884 mất luôn nước.
Tằm ăn lên. Vua Nguyễn quá xuẩn!
Câu 3
Như hà nghịch lỗ lai
xâm phạm.
- Như hà là lời hỏi
vặn, vì sao, vì cớ gì, hà cớ gì, mắc mớ gì.
- Nghịch [忤逆 ] Nghịch là từ phản nghĩa của
thuận, Nghịch làm trái với lẽ tự nhiên (thuận)
- Lỗ [虜 ] là từ dùng để "nhiếc mắng
", đồ mọi rợ, bọn tù mọi rợ
Dịch nguyên câu ba
"Như hà nghịch lỗ
lai xâm phạm" Hà
cớ gì mà bọn mọi rợ ngỗ nghịch kia sang xâm phạm. Xâm phạm cái gì? Lý tướng
quân cho rằng bọn Tống với "vua Tống ngu hèn " kia đã xâm
phạm những điều đã quy định (vốn được phân định rạch ròi từ sách trời, ít nhất
là từ khi Ngô Vương ta thiết lập nền độc lập vĩnh cửu cho dân Lạc Việt )
Câu 4
Nhữ đẳng hành khan thủ
bại hư.
- Nhữ đẳng là đẳng cấp bọn mày, thứ "ngữ mày", "thứ đẳng cấp thuộc
loại ngữ mầy thì làm được nước non gì !"
- hành khan là thấy ngay lập tức
- thủ bại hư cầm chắc trong tay lấy
thất bại hoàn toàn.
Dịch nguyên câu tư ;
Nhữ đẳng hành khan thủ
bại hư.
Thứ "ngữ mày" nắm chắc thất bại hoàn toàn ngay thôi
mà !.
Trận chiến trong đêm
trăng bên bờ sông Như Nguyệt chỉ cách kinh thành Thăng Long trên dưới vài chục
dặm (khoảng 60 km). Trong khi cần sự hưng phấn của người chiến binh, biết đâu
có cả bọn trẻ vác tre, vót chông, đội đất đắp lũy chống lại súng bắn đá của
địch đang gây tổn thất lớn cho thuyền bè ta. Trong bối cảnh ấy, người chiến
binh, người dân công trồng tre làm rào chắc chiến lũy, kẻ ngồi vót chông gây
chướng ngại có thể tử trận bất cứ lúc nào do đá bắn qua tới tấp từ bên kia
sông. Với họ vừa làm vừa giữ trận tuyến, thì giờ là vàng bạc. Lời thơHịch miễn
sao tạo nên khí thế chiến đấu cho quân binh là đã đủ. Thế mới biết chọn cách,
chọn điểm tiến hành phổ biến bài thơHịch là rất đổi tài tình của Lý tướng quân.
Nhờ đêm tối, đêm là thời điểm của thần nhân, là cõi âm, là cõi tỉnh, người nghe
rõ hơn, tập trung hơn. Chính vì thế mà ngôn ngữ bản dịch này phải có giọng
trách mắng, phải có ngôn ngữ miệt thị kẻ thù truyền cho mọi tầng lớp dân quân,
chiến sĩ tham gia chiến dịch, trận đánh thông hiểu. Đó là loại ngôn ngữ thơHịch
rất đặc trưng của dòng thơ cổ do tiền nhân ta viêt. "Ai đó "đã đem
giọng mượt mà đầy chất thơ vào bản dịch bài thơHịch này, laiquangnam e rằng
không đúng chỗ. Ngôn từ tuyệt kỹ của người xưa là dùng âm điệu cao thấp của
dòng thất ngôn, và ngôn từ cần là "đánh đúng vào lòng người Việt khiến họ
phấn khích mà cầm gươm xông tới, quên đi nỗi sợ tử vong ", lúc ấy không có
từ mượt mà mềm yếu. Điều tốt nhất là chúng ta buộc phải thuôc nguyên tác hiểu
cặn kẻ từ tiếng Nho nay không còn dùng. Hiểu rõ được từng ngữ nghĩa thì càng
yêu mến tiền nhân ta hơn nữa. Ngày nay học sinh tại Việt nam học thuộc lòng và
nghe giảng bài Nam
quốc sơn hà, đáng tiếc như sau :
Nam quốc sơn hà
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
(Đúng ra phải là phân định)
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Rõ ràng bản dịch ra quốc
ngữ khiến bọn trẻ dễ học, dễ nhớ hơn, nhưng sẽ không hay bằng nguyên tác nếu
như thầy cô giáo chịu giảng với cả tấm lòng.
Mỗi bản văn được thể tái
thể hiện trong từng nhóm binh sĩ khác nhau khi họ luận bàn ngữ nghĩa của từ bài
thơ thần mà họ vừa nghe tiếng thần nhân đọc trong đêm trăng bên bờ sông Như
Nguyệt trong trận đánh quyết định sống còn, nhưng họ đâu có hiểu đó là thần cơ
trong cách dụng binh của Lý tướng quân, mượn miệng thần linh để binh sĩ mình
mau thấm nhuần lời hịch do mình viết, vừa phấn khích, vừa tức bọn giặc ngu xuẩn,
lỗ mãng, vừa khúc khích cười, vừa ra dấu chọc quê kẻ địch bên kia sông. Xưa nay
theo thông lệ người chỉ huy luôn luôn được nhận vinh quang về quyền tác giả các
bản văn hịch mà mình nói, viết hay mình cho lưu hành, cho đến khi đời sau có
"ai đó" chứng minh bằng văn bản rằng đã có người sáng tác ra nó. Nói
ngược lại, phủ nhận Lý thường Kiệt là tác giả với đòi hỏi phải chứng minh có
bút tự của Lý thường Kiệt e rằng kẻ ấy ấm đầu.
Nay xin thể hiện lại bài Nam quốc sơn hà
với hai bản văn dịch thơ hịch như sau:
01
Nước non Nam Đế Nam hùng cứ!
Phân định sách trời xưa
tỏ nay,
Lỗ mãng! cớ sao sang
lấn phạm,
Ngữ bây thất bại chắc
trong tay !
02
Đất nước Nam, Đế Nam,
hùm ngự !,
Sách trời phân định tỏ
xưa nay.
Cớ sao lỗ mãng sang
xâm lược!,
Chống mắt xem Ta
" tẩn" lũ mày!
"hùm ngự", vuốt rau hùm chết có
ngày nghe con!. Rừng nào cọp nấy.
" tẩn", đẩn, tẩm, đấm, xáng, táng" là các từ mà bọn trẻ Việt
nam hay dùng sau khi hạ gục kẻ thù. Xin Khách thơ hãy cố hình dung để thấy trọn
nụ cười hồn nhiên chọc quê lính Tàu của bọn trẻ tham gia trận đánh khi chúng
dùng tiếng địa phương của khắp mọi miền đất nước đang hiện diện trong đêm đó .
Bạn đọc có thấy bọn trẻ
vừa tiếp tre, vừa tiếp đất cho người chiến binh dưới làn mưa đá của đội quân
xâm lược Quách Quỳ cố phục hận, họ bắn qua xối xả qua bờ nam sông Như Nguyệt
trong đêm trăng. Bọn chúng đùa vui, có gì phải sợ. Chống mắt xem Ta "
tẩn" lũ mày!. Trận đánh mà bên ta chết hai hoàng tử, và kẻ địch tổn
thất vô cùng nặng nề, 10 phần chết sáu bảy. Quách Quỳ vị tướng Tàu, người Tàu
vô cùng sừng sỏ, cũng sợ chết, rồi chịu lui quân. Ông nói ta thà mình ta thân
bại để cứu muôn người còn hơn chết chùm. Vua Tống thua me gở bài cào, rồi cuối
cùng quyết định lột chức đuổi Quách Quỳ về quê. Ôi khí thế này, ngày nay chúng ta không còn
mong thấy lại !
Lỗ mãng chữ nặng nề hơn chữ mất day nhiều, lỗ mãng
là chữ của người bề trên nói với kẻ dưới, thường hàm chứa một sự đe dọa, hễ
không sửa chữa là " bụp" liền. Chữ mất dạy có khi người nói không đủ
sức kiềm chế người bị nguyền rủa, nhưng người dùng chữ lỗ mãng thì tự tin là ta
sẽ đánh mày nếu như mày không biết hối lỗi.
Chống mắt thường là sự quả báo cho một hành động
phải xảy ra khi có một nguyên nhân sai lầm hoặc bất nhân.
Tẩn, đẩn là khi ta chế ngự địch thủ đến mức không
còn khả năng kháng cự, địch thủ chỉ còn nằm yên chịu trận mà thôi.
Vài
bản dịch của người xưa
(Laiquangnam không bình hay có bất kỳ ý kiến gì)
01
Sông núi nước Nam
vua Nam
ở
Rành rành định rõ ở sách trời
Cớ sao lũ giặc đến xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời !
(Hợp
tuyển thơ văn Việt Nam
thế kỷ X đến giữa thế kỷ XVII)
02
Sông núi nước Nam vua nam coi.
Rành rành phân định ở sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Bay sẽ tan tành chết sạch toi.
(Bản
dịch của HOA BẰNG)
03
Sông núi nước Nam
vua Nam
ở
Rành rành định phận tại sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm ?
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời!
(Bản
dịch:của Trần Trọng Kim)
04
Núi sông Nam Việt vua Nam ở
Vằng vặc sách trời chia xứ sở
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ
(Lê
Thước và Nam Trân dịch)
05
Đất nước Đại Nam,
Nam
đế ngự
Sách trời định phận rõ non sông
Cớ sao nghịch tặc sang xâm phạm ?
Bay hãy chờ coi chuốc bại vong.
(Người
dịch : Ngô linh Ngọc)
Lời cuối
1_ Sau trận thua đau này nhiều người Tàu thời ấy, hoặc sau này viết
nhiều câu chuyện Tàu nhằm giảm cấp chuyện đánh Tống thắng lợi vang dội của danh
tướng Lý thường Kiệt năm xưa. Họ đặt điều nói xấu tiền nhân ta tỉ như bịa đặt
các tên gọi xách mé, mà "sử gia"(sic!) TCĐT cố tình trích dẫn gán
ghép cho Lý tướng quân mang tên xấu xa ấy. Họ thần thoại hóa sức mạnh của Quách
Quỳ như là một danh tướng bách chiến bách thắng trong các truyện Tàu mà thế hệ
chúng tôi khi còn nhỏ khoảng cuối đầu thập niên (1955-1962) ham đọc các truyện
Tàu ấy như Tam hạ Nam dường, Vạn huê lầu mà không biết đầu mình đã nhiễm độc,
mình đã bị người Tàu cấy vào đó một "tế bào ung thư" nay có người đã
bị di căn thành bệnh "bóng đè" nào có hay!
Chính sử Tàu đã viết
"xấu hổ vì thất bại trên trận đánh với Lý thường Kiệt vua Tống đã lột chức
Quách Quỳ đuổi về quê".
2_ Xưa nay người Tàu vốn sở trường về hàng gian hàng giả, là chúa đặt
điều trong các sách truyện ký sự nói xấu nước ta. Tôi đã thấy, đã tiếp xúc, đã
đọc trên internet, tư tưởng Đại Hán thái quá của họ luôn luôn là điều khiến cho
người Việt chúng ta phải dè chừng bọn ba Tàu như ông bà chúng ta đã dè chừng từ
hơn 2000 năm nay. Từ ba Tàu, ba Trời, ba Hoa trong ngôn ngữ Việt là một minh chứng với ba là một prefix.
TCĐT được học với sử gia người Việt là giáo sư Nguyễn Phương tốt nghiệp tiến sĩ
tại Pháp năm xưa về dạy ngay ĐHVK_SG, nay ông lại đang tâm bôi nhọ mọi danh
nhân đất nước ta, Ông không từ một ai từ Thần nhân người Việt đến các đại anh
hùng dân tôc như Lý thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Vua Quang Trung. Sách vở mà ông
trích dẫn toàn là các ký sự bịa đặt không thuộc giòng chính sử! Lý ra ông phải
là người kết nối và hòa giải lòng hận thù, vì nguyên nhân đưa đến lòng hận thù
ấy giữa hai dân tộc Hoa-Việt ông biết rất rõ mà. Tiếc thay ông lại nhiễm tư
tưởng Đại Hán đến tận thế kỷ 21 qua các trang sử Việt tưởng vô tư, vô hại nhưng
lại vô cùng ác độc. Buồn thay vì tôi không thấy mấy ai là người Việt " có
học " tử tế lại để tâm đến tình tự dân tộc Việt, nay Họ lại không hề lên
tiếng vì " người khôn nhất là người luôn tụng câu đầu môi " một câu
nhịn là chín câu lành ! "; rằng " nó ăn ở không phải thì trời trả báo
nó !", nhớ xưa vị Phật sống của chúng ta là nhà vua Trần nhân Tông đã
khoác chiến bào cùng Hưng Đạo Đại Vương dẹp giặc, dẹp tan quân Nguyên hung hãn
để cứu đất nước này khỏi diệt vong. Nhà thiền sư đất Việt năm xưa còn vậy huống
hồ gì bây giờ mà giới có học lại " thủ thân vi đại " thấy chuyện bất
bình về văn hóa, về lịch sử tiền nhân, về ba vị đại anh hùng dân tộc, ba danh
tướng nhất của dân Việt bị bôi lọ mà nở làm thinh, rằng "sống chết mặc
bây" chỉ có mình ta khôn ?. Buồn thay !
3_ Vua là chủ nước nhỏ, Đế là chủ của nước lớn.
4_ Khác hơn các bản hùng văn được thể hiện đây đó trên thế giới, bản hùng
văn này có những yếu tố kỳ lạ tối ưu sau.
- Một là dùng thơ để viết
hịch.
- Hai là bài thơ lại rất
ngắn, nó chỉ có bốn câu gồm 28 chữ, với một bố cục cực kỳ chặt chẻ mà trong
suốt giòng lịch sử của người Tàu họ không làm sao tưởng tượng nổi ; rằng đã có
một tướng lãnh Đại Việt đã viết hàm súc như vậy. Đã không hình dung được thì
làm sao mà sáng tạo.
- Ba là Thể hịch buộc
phải dùng lời" khoa ngôn " để khích tướng và làm cho người chiến binh
bớt sợ kẻ thù. Nam
quốc sơn hà thì người thật việc thật, không lộng ngữ khoa ngôn.
- Bốn là bài hịch được
truyền đi khi vị tướng quân tư lệnh chiến trường không cần phải tập hơp binh
sĩ, không cần phải nhìn hàng quân dưới bóng quân kỳ mà ban lời "nhật lệnh
", "huấn lệnh, đọc bài hịch để nâng cao tinh thần binh sĩ như thông
lệ. Lý thường Kiệt đã có cách khác hiêu quả hơn nhiều, kỳ diệu hơn nhiều. mau
thuộc mau nhớ, trình độ nào cũng hiểu, diễn nôm ở dạng nào cũng được
- Năm là bài thơ của Lý
tướng quân dùng ngôn từ cho cả hai đối tượng mà mình nhắm đến, binh sĩ thuộc
quyền và cả binh sĩ địch. Với kẻ thù thì đó nặng lời " mắng mỏ ",
miệt thị và đối với binh sĩ mình rằng những gì ta nói có các nhân chứng nay là
thuộc tướng của ta, họ đã chứng kiến.
- Sáu là Lý thường Kiệt
biết giữa ngôn ngữ bình dân, số từ tiếng nôm nhiều hơn thứ tiếng Tàu mà các
quan văn (ông bà ta) đang dùng nên bài thơ Hịch có thể được dịch ra thành nhiều
bản khác nhau, tùy theo độ nhuần nhuyễn từ ngữ dân tộc, từ đó đánh thẳng vào
lòng yêu quê hương của người chiến binh không được mấy hiểu biết chữ Nho
5_ Là người Việt ngày nay mỗi khi chúng ta thẩm định lại giá trị một
bài cổ văn của dân tộc, buộc phải nhìn trước nhìn sau và quy chiếu một cách
nhất quán với tình tự dân tộc để thử tìm xem một cách cặn kẽ và có hệ thống
rằng " có thuốc độc trong viên kẹo ngọt" hay chăng. Âm mưu Hán hóa
lên dân tộc Việt mà người Tàu nhất quán áp lên dân tộc này từ thời vua Hán vào
thế kỷ thứ I, SCN khi họ sai Mã Viện Ngưu Đầu triệt hạ văn minh Lạc Việt, một
nền văn minh Trống Đồng, văn minh lúa nước đã có khi tiếp cận với các nước Nam
Á qua đường hàng hải trước khi người Trung quốc xâm lược và hủy diệt nó đi.
Người Việt nay cầm bút cố mà tự hỏi lòng rằng "Cây quât trồng ở Giang Nam
thì ngọt mà mang trồng Giang Bắc trồng thì chua" có đúng trong trường hợp
này chăng ?. Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có bản sắc riêng của mình nên người
nước Nam phải thưởng ngoạn
theo phong cách và tình tự của người phương Nam cần gì phải Tử viết, phải Lưu
Hiệp nói. Lý luận văn học của ta nên theo cách đánh giá của tiền nhân ta, Lê
quý Đôn và Ngô Thời Nhiệm... kiến văn nào có chịu thua kém ai, không thể nhất
nhất đều bị "bóng đè" như lớp đàn anh mình sinh ở thập niên 1930 nay
còn sót lại đó đây, họ làm nhiễm bẩn bản sắc dân tộc Việt. Người Việt hiện nay
cần có tinh thần khửHánhóa (déhanisation), để chống lại quyền lực mềm HánHóa
(Hanisation) mà Trung quốc hiện nay đang cố triển khai trên đất nước ta như
những gì ta thấy qua phim ảnh hằng ngày trên tivi, trên báo chí tại Việt nam.
6_ Những yếu tố khiến Lý thường Kiệt thành công trong việc chinh
chiến, xin mời đọc một đoạn
"Giáp Thìn,
[Chương Thánh Gia Khánh] năm thứ 6 [1064], (Tống Anh Tông Thự, Trị Bình năm thứ
1). Mùa xuân, tháng giêng sai sứ sang Tống.. Mùa hạ, tháng 4, [3b] vua ngự ở
điện Thiên Khánh xử kiện. Khi ấy công chúa Động Thiên đứng hầu bên cạnh, vua
chỉ vào công chúa, bảo ngục lại rằng: "Ta yêu con ta cũng như lòng ta làm
cha mẹ dân. Dân không hiểu biết mà mắc vào hình pháp, trẫm rất thương xót, từ
nay về sau, không cứ gì tội nặng hay nhẹ đều nhất luật khoan giảm". (ĐVSKTT )
Sử thần Ngô Sĩ Liên
nói: Xót thương vì hình ngục, nhân từ với nhân dân, là việc đầu tiên của
vương chính. Thánh Tông lo tù nhân trong ngục hoặc có kẻ vô tội mà chết vì đói
rét, [6a] cấp cho chiếu chăn ăn uống để nuôi sống, lo quan lại giữ việc hình
ngục hoặc có kẻ vì nhà nghèo mà nhận tiền đút lót, cấp thêm cho tiền bổng và
thức ăn để nhà được giàu đủ. Lo dân thiếu ăn thì xuống chiếu khuyến nông, gặp
năm đại hạn thì ban lệnh chẩn cấp người nghèo, trước sau một lòng, đều là thành
thực. Huống chi lại tôn sùng đạo học, định rõ chế độ, văn sự thi hành mau chóng
bên trong; phía nam bình Chiêm; phía bắc đánh Tống, uy vũ biểu dương hiển hách
bên ngoài. Tuy có việc lầm lỗi nhỏ khác cũng vẫn là bậc vua hiền. Hoặc có
người bảo là vua nhân nhu có thừa mà cương đoán không đủ, ngu ý chưa cho là
phải”.
Đời Lý với quốc giáo
là Phật giáo nước ta chỉ mới 150 lập quốc dân ít, văn hóa chưa cao so với địch
mà đã kéo quân vào Trung quốc đánh đấm ra trò, đây là lần duy nhất trong sử
Việt ắt cũng có nguyên nhân sâu xa của nó. Vua Lý là cha mẹ dân, coi dân như là
con em của mình. Một bài học muôn đời của nhân cách Việt. Phục thay !
Tham khảo
1_ Chữ Nho là thứ chữ mà ông bà ta xử dụng có nguồn
gốc từ tiếng Tàu mà ra, do vì ông bà ta bị Tàu, người Tàu đô hộ, họ hủy sach
văn tự của ta ( ?) trong hai cuộc tàn phá văn hóa có tính "hệ thống, bài
bản " được thi hành chặt chẻ. Lần thứ nhất là vào đời Hán, năm 43 SCN do
Ngưu Đầu Mã Viện thực hiện theo chỉ thị của vua Hán. Và lần thứ hai vào các năm
1400-1428 do Trương Phụ thực hiện dưới sự chỉ đạo của vua nhà Minh [1]. Khi bị mất chữ viết,
người Việt xưa buộc phải dùng chữ Tàu của người Tàu là người đã đô hộ mình. Đó
không là ngôn ngữ của mình, nên ông bà ta chỉ chọn lọc một số ít từ để dùng tạm
trong việc điều hành quốc gia như quản lý xã hội (quản lý hộ khẩu, Họ tên (tiện
cho việc bắt lính, đóng thuế ), viết gia phả, văn bia... ) ; dùng trong việc
thi cử ( dựa vào văn chương mà tuyển người tài cho đất nước ... ). Ước độ ông
bà ta dùng trên dưới 5000 từ đơn (Tự điển Hán Việt của ĐDA vào đầu thế kỷ 20 là
một minh chứng).
Vào năm 1407-1427 Người
Tàu thấy người Việt viết chữ Nho nhưng đọc theo âm Hán đời Đường, thế kỷ thứ
IX_X, , mà ta tạm gọi là âm Hán Việt không giống như người bản địa ( Tàu, người
Tàu đời Minh) cho nên đã bắt về Trung quốc hơn 200 người là các học sinh, là
thầy chùa sang Tàu để người Tàu tái đào tạo rồi tung về Việt nam để duy trì sự
liên tục dòng văn hóa Hán tộc. Lối đi là qua kinh sách Phật giáo Trung quốc (
mà nay vẫn còn là một thứ "bóng đè" nặng trên vai Phật giáo Việt nam
). Nhiều hình tượng La Hán, Phật, Bồ tát vốn không có tại nước ta thời Lý Trần
với dòng thiền rất đặc sắc, thiền "Yên tử", nay lại xuất hiện đầy ở
rất nhiều chùa miếu ở Nam
bộ hiện nay.
2_ Từ Hán Việt là tập hợp con của chữ nho, từ thứ chữ nho ấy mà chuyển
hóa. Từ Hán Việt là tiếng Hán đọc theo Âm Việt đã được chọn lựa lại trong số
ấy. Từ HánViệt là từ mà ngày nay chúng ta cần phải làm ngay một quyển tự điển
gọn nhẹ, nhằm giúp học sinh và người dùng bình thường để dùng đúng, như Nhật
Bản đã làm giúp đở thuyền nhân Việt nam trên xứ họ, học sinh chỉ cần quanh quẩn
trong vòng 3000 từ là đủ. Làm như ĐDA vừa thiếu vừa dư, lẫn lộn giữa chữ Tàu,
chữ nho và từ Hán Việt, từ Việt Hán. Ta cần có ngay nó để có bộ tự điển đối
chiếu Prefix và suffix dành chuyển ngữ các thuật ngữ Khoa học, văn chương, luật
pháp ... vv.... một cách nhất quán.
3_ Từ Việt Hán là tập hợp con của từ Hán Việt, có số phần tử nhỏ hơn
hay bằng. Từ Việt Hán là từ tối cần thiết để mở rộng ngôn từ và sức sống cho
dòng Việt ngữ. Ngày nay ta mượn âm Hán chỉ là cái vỏ bọc để dịch các
"thuật ngữ" khi ta tiếp cận Văn minh thế giới Tây phương, nó đã ảnh
hưởng trên văn hóa chúng ta ngày nay không thể tránh khỏi. Văn hóa của dân tộc
ta là sự tiêu hóa, là sự tiếp cận, tiếp nhận và có chọn lọc. Muốn hiểu từ Việt
Hán cho tường tận, ta phải chú bằng tiếng Anh bên cạnh, và người dùng buộc phải
tra Encyclopedia của Anh Mỹ mới mong hiểu rõ nghĩa. Các Đại tự điển của người
Tàu, họ cũng dịch từ các bộ Encyclopedia của Anh, Mỹ, Pháp mà ra cả. Ví dụ các
từ Triết học (philosophy), văn hóa (culture) tư bản (capital) là các từ Việt
Hán. Văn hóa (tĩnh từ) là từ Hán Việt (dùng tự điển Thiều Chửu để tra). Văn hóa
(danh từ là vỏ bọc) là từ Việt Hán phải dùng Encyclopedia để tra cho tường tận
ngữ nghĩa. Các vị được gọi là học giả bị "bóng đè" nặng thường thích
tra cứu các từ mà laiquangnam giới thiệu ở trên bằng các đại tự điển của Trung
quốc. Hết biết!. Dịch lại cái người ta đã dịch từ trong các bộ Encyclopedia của
người Phương Tây để hiểu từ, đó là lối làm việc của học giả bị "bóng
đè"
4_ Trong ngôn ngữ của ta có tám định nghĩa về một loại từ để sắp xếp
nó vào là chủng loại nào. Do khuôn khổ và nội dung của bài Nam quốc sơn hà không cho phép
laiquangnam dài dòng, xin hẹn quý bạn trong một bài viết khác.
Phần đọc để biết.
Trong thế kỷ trước, đa
phần các nhà sư Việt nam xuất gia từ thuở bé, tu tập tại chùa nhỏ của Phật giáo
Việt nam dưới thời Pháp thuộc và hay ngay cả thời Ngô Đình Diệm tại các địa
phương xa kinh thành Huế, họ đã có lối học chữ Nho như thế, nhất là trước năm
1935. Lối học chữ nho này phổ biến tại các chùa ở đồng bằng Nam bộ, trên các hải đảo, và có lẽ
cả giới tu sĩ Cao đài nữa. Học hành không tới nơi nên du nhập " thượng
vàng hạ cám " là nhiễm bẩn văn hóa Việt tộc thậm chí có chùa còn đem Quan
Vũ, phong cho thành Bồ tát, là thần Hộ pháp cho PGVN. Lớp trẻ nếu không được
cảnh giác sẽ mất định hướng về văn hóa Lạc Việt. Ngày nào mà dân trí ta còn thấp thì ngày ấy
càng bị Hán hóa nặng nề trong tư tưởng và trong cách sống. Dễ thấy nhất là lớp
người sinh thập niên 1930 biết chút chữ Hán cũng a dua truyền bá không công cho
văn hóa Tàu, lấy điển Tàu, phong tục của người Tàu rồi gán cho "khuôn phép
của tiền nhân ". Bó tay !
Ngày nay chúng ta có
những từ song lập, với đặc điểm là chữ sau giải nghĩa chữ trước. Ví dụ trong
ngôn ngữ của ta có các cặp từ thượng lên, hạ xuống, hay khi nói "đường
quốc lộ" "sông Nhị hà" vẫn không nghe chướng. Nhiều người ra vẻ ta đây bày đặt chỉnh sửa người nói sai,
phê phán người nói đã dùng dư từ, theo họ nên nói "quốc lộ",
"Nhị hà". Theo ngu ý laiquangnam đó là sự phê phán không cần thiết.
Nổ! là bệnh của anh cái cần biết thì không biết, cái cần nói thì không chịu
nói, cái cần bỏ qua thì gay gắt, ta đây. Cách học chữ nho của ông bà ngày
ấy, cũng có nhiều cái hạn chế, chữa lửa , ví dụ ngay từ chữ bắt đầu học,
"chữ thiên" trong tam thiên tự cho ta thấy gì?. "Thiên",
tiếng Tàu của người Tàu có ít nhất là 26 chữ trùng âm, , người Tàu viết 26 chữ
khác nhau để phân biệt ngữ nghĩa. Âm Hán Việt đều đọc là thiên. Chữ địa của
người Tàu dùng có thể ít nhất trong bảy ngữ nghĩa khác nhau. Khi sang tiếng
Việt còn đôi ba nghĩa, địa là đất, địa là vị trí chổ ngồi, là thứ bậc trong xã
hội, vidu địa vị. Từ từ Hán Việt, Địa là đất sang từ Việt Hán (như là vỏ bọc )
như thuật ngữ ĐịaLýHọc (geography). Trong khi tiếng thuần Việt, "Địa"
còn là là động từ chỉ chôm, chỉa. Địa trong từ song lập thổ Địa chỉ người là
rành về một địa bàn.
Laiquangnam
cuối thu 2010
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét