Với một số lượng nhạc phẩm đồ sộ,
không mấy người Việt không biết đến ca khúc Phạm Duy, nhưng do những đứt
gãy lịch sử, không phải ai cũng có thể hiểu đầy đủ về con người nhạc sĩ
Phạm Duy, nhất là khi ông đã có một thời gian vắng mặt khá lâu ở quê
hương. Để giúp bạn đọc hiểu thêm về một trong những người nhạc sĩ làm
nên diện mạo âm nhạc Việt Nam, Sài Gòn Tiếp Thị xin giới thiệu một phần
những thổ lộ của ông với nhạc sĩ Tuấn Khanh vào năm 1996, gần mười năm
trước khi Phạm Duy về định cư tại Việt Nam.
Thưa
nhạc sĩ, nếu có thể tóm tắt đời mình trong một câu nói, thì ông sẽ nhận
định như thế nào về cuộc đời hoạt động và sáng tác đầy những thăng
trầm biến động của ông?
Tôi là một người hát rong, sung sướng được làm người hát
rong của thế kỷ.
Trong
những năm tháng còn ở quê nhà, người ta tìm thấy một Phạm Duy xuất
hiện ở khắp nơi; từ chuyện tranh đấu cho đến những du ca buồn cho đất mẹ đang
oằn mình bởi chiến tranh và bom đạn, những khúc tình ca thoáng ẩn hiện cho
nỗi buồn chia cắt đất nước, những bài tục ca thời thượng với đám trẻ hippy… đâu
đâu cũng có dấu chân ông. Xin được hỏi, ông đã tìm thấy nơi mình bản
chất là một nhạc sĩ đơn thuần đau lòng trước vận nước, hay là một người
hoạt động xã hội, một người muốn làm chính trị và sử dụng tài năng âm
nhạc vào mục đích đó?
Người hát rong đã suốt đời không nhận làm một chú hề cho
vua chúa (bouffon du roi), đã chọn người dân là đối tượng, rồi trong một thời
loạn lạc chia ly đã tự nguyện làm người “khóc cười theo mệnh nước nổi trôi” thì
làm sao mà im tiếng hát trước những buồn vui của dân tộc được? Trong một nước
có quá nhiều biến cố chính trị như nước ta, tôi cũng công nhận rằng nhiều phen
tôi bị chính trị bủa vây, nhưng tôi đã cố gắng tránh nó… Không biết tôi có
tránh nổi nó chưa? Hay cứ bị người ta đeo vào mình hết nhãn hiệu này tới nhãn
hiệu khác?
Ông
có tin rằng mình đã gắn liền với một giai đoạn lịch sử của Việt Nam và
thực sự đã góp phần ít nhiều tác động vào nó (bằng cá tính của mình, bằng
lời ca tiếng đàn của mình)?
Tôi cũng muốn tin như vậy nhưng trong thực tế, lời ca
tiếng hát nhỏ nhoi của lũ nghệ sĩ chúng tôi không có tác động gì tới thời cuộc,
ngoài việc có thể làm rung động trái tim hay lương tâm con người.
Được
biết năm 1986 là giai đoạn khủng hoảng rất lớn của ông, xin ông cho
biết thêm về sự khủng hoảng đó. Một trong những lý do chính có phải là nỗi
buồn xa xứ không?
Đó là lúc, cũng như hầu hết những người xa xứ, tôi quá mệt
mỏi vì trong suốt 15 năm, tôi chưa ra khỏi cơn chấn động và tự dìm mình vào
loại nhạc than vãn với bài Tình thu là một ví dụ. Nhưng ít lâu sau đó, tôi bỗng
nhìn thấy trong thế giới có nhiều sự đổi thay khiến cho nước tôi rồi cũng sẽ
phải được giải quyết theo một chiều hướng tốt… Thế là tôi vươn ra khỏi những
tình cảm chật hẹp để soạn mười bài hát cho những năm 2000, đó là mười bài Rong
ca.
Đã
có bao giờ ông tiếc nuối vì đã xa quê hương không? Nỗi buồn xa xứ
hiện diện bên trong ông đã tác động như thế nào đến ca khúc và sự
sáng tác của ông? Những suy nghĩ của ông về quê nhà nói chung như thế
nào?
Ai xa quê hương mà chẳng tiếc nuối? Càng xa quê hương lại
càng yêu quê hương hơn – nghe lại điệp khúc bài Tình hoài hương đi! Nhưng nghệ
sĩ là hạng người thường thích bay nhảy, tôi lại có máu giang hồ từ nhỏ, và ra
với thế giới thì lại học hỏi được nhiều, tôi chưa bao giờ hối hận là đã ra đi.
Nhưng cuộc ra đi nào cũng phải có ngày về. Về lúc nào và ra sao là tuỳ mỗi
người. Tôi hy vọng sẽ gặp lại quê hương và hát cho đồng bào nghe, trước khi
chết.
Đã
có bao giờ ông cảm thấy hối hận vì một điều gì đó chưa – kể cả trong tình
yêu và trong chính kiến, nếu có xin ông cho biết qua về tâm cảm đó?
Sống rất phóng túng và nhất là sống trong một thời đại rất
náo động thì – hoặc ít hay nhiều – tôi có thể đã làm nên những điều lầm lỗi.
Tôi rất muốn được xin lỗi nhiều người.
Ước
muốn lớn nhất của ông ở tuổi 76 là gì, thưa nhạc sĩ?
Là cứ được sống như thế này, mãi mãi. Xin sức khoẻ đừng
quá mau sút giảm. Mong cứ được đi hát đều đều, nay Paris, mai Sydney, mốt
Tokyo… biết đâu chẳng có ngày Hà Nội hay Hải Phòng? Ước ao vẫn được sống với
nguồn cảm hứng dồi dào để soạn nốt ba bức minh hoạ còn lại của Truyện Kiều. Và
nhất là vẫn còn đủ thì giờ nhàn rỗi để chơi với cháu ngoại…
Thưa
nhạc sĩ, hãy thử tưởng tượng nếu 20 năm nay ông ở lại trong nước hoạt động và
sáng tác, liệu ông có làm được nhiều hơn (hay ít hơn) những gì ông đã làm
được ở hải ngoại?
Trong giới soạn nhạc, ai cũng mơ ước đưa nhạc mình từ nhạc
đơn điệu (monodique) lên nhạc đa điệu (polyphonique) thì, từ nhiều năm qua, tôi
và Duy Cường có cơ hội ở một nước kỹ thuật cao như Hoa Kỳ để có thể đi vào lãnh
vực điện toán rồi áp dụng nó vào âm nhạc. Tôi nghĩ rằng về hình thức, nhạc của
tôi tiến hơn thời 1975. Tôi vẫn thường nói 20 năm qua là 20 năm đi du học của
tôi.
Trong
album Mẹ năm 2000, người nghe cảm nhận được một điều gì đó thật buồn
bã báo trước một cuộc chia tay lớn. Thưa ông, điều gì đã làm cho ông đi
đến những chiêm nghiệm về cái chết và sự sống như vậy? Nó có phải là
sự tổng kết một kinh nghiệm cuộc đời đứng trông những muộn phiền,
buồn vui của cõi nhân gian?
Anh muốn nói tới album mười bài Rong ca mang tên Người
tình già trên đầu non? Xin được thưa với những người yêu nhạc rằng: có ba con
người trong tôi, (1) con người tình cảm soạn ra những bản tình ca cho đôi lứa;
(2) con người xã hội soạn nhạc khóc cười theo mệnh nước nổi trôi; (3) con người
thứ ba là con người tâm linh với những tác phẩm ra đời từ xưa như Lữ hành, Xuân
hành, Đạo ca, Thiền ca… thì mười bài Rong ca là những bài hát về một chuyến đi
tâm tưởng. Chuyến đi của đời người trên dòng nhạc tư duy. Hành lý là con tim mở
ngõ, chốn đến là tự thức an nhiên. Là một quay lưng không bận bịu. Là một trở
về rất vô tư. Là những bài hát “nghiêng tai nghe lại cuộc đời”…
Mười bài Rong ca nói nhiều tới sự chết cho nên có thể làm
cho người nghe thấy buồn nhiều hơn vui chăng? Cho tới nay, có khá nhiều bài viết
về nó. Sẽ có dịp tôi mời mọi người đọc những bài này, trước khi đích thân tôi
biểu diễn Rong ca cho quý vị nghe.
Để
nói một lời tạ lỗi và một lời cảm ơn đến một ai đó trong đời mình, ông
sẽ chọn ai? Vì sao?
Xin tạ lỗi cùng quê hương vì phải bỏ đất nước ra đi sinh
sống tại thị trấn Giữa Đàng (Midway
City). Xin cảm ơn những
ai còn hát nhạc Phạm Duy. Xin mang ơn tất cả những người tình tóc xanh, tóc
vàng, tóc đỏ… và tóc trắng.
Ông
có nuối tiếc vì còn chưa làm xong một điều gì đó cho thế hệ sau của người
Việt?
Tôi sẽ không có gì để nuối tiếc cho tôi, vì tôi đã làm
xong công việc ca hát của tôi rồi. Tôi khởi sự cuộc đời hát rong bằng dân ca
kháng chiến và sẽ kết thúc sự nghiệp bằng Kiều.
Xin
ông cho biết thêm về quan điểm của mình đối với các nhạc sĩ thế hệ cùng
lứa như Văn Cao, Lê Thương, Nguyễn Văn Tý, Nguyễn Văn Thương?
Tôi có kỷ niệm riêng với từng người và lúc nào cũng thấy
trong lòng rưng rưng muốn khóc khi nhớ tới các bạn vong niên đó. Tôi chỉ có
cách hay nhất để gặp lại họ, là vinh danh công trình đóng góp của họ vào nhạc
sử Việt Nam
trong loạt bài trên internet. Tôi ước mong anh em đọc được những bài viết của
tôi…
Trong
suốt thời gian ở hải ngoại, ông không ngừng theo dõi và nghiên cứu nền
âm nhạc trong nước. Xin nhạc sĩ cho biết ông tìm thấy được một hứa hẹn nào cho
âm nhạc Việt Nam
trong lớp nhạc sĩ và sáng tác trong nước từ sau năm 1975 đến nay. Với
cả hai câu trả lời có và không, xin nhạc sĩ nói rõ quan điểm của mình?
Tuy theo dõi và nghiên cứu nền âm nhạc trong nước để soạn
những chương trình âm nhạc cho vài đài phát thanh, nhưng tôi thấy việc làm của
tôi còn thiếu sót vì lẽ giản dị là tôi không sống thường xuyên ở trong nước.
Xin trả lời một cách rất phiến diện và rất vắn tắt là: nhạc sau 1975 thiếu
những hứng khởi của nhạc thời 1940 – 1950 hay những suy tư của nhạc thời 1960 –
1970. Tôi xin lỗi nếu nhận định này chưa đúng với thực tại.
Thưa
nhạc sĩ, giả dụ ông đã không ra đi, ở lại trong nước và tiếp tục cuộc đời
nghệ thuật của mình sau 1975 thì liệu các sáng tác của ông có ra đời
nhiều hơn hiện nay không? Tư tưởng sáng tác của ông có gì khác biệt? Hay
chỉ có môi trường sống hiện nay mới là lý tưởng cho ông hoạt động nghệ
thuật?
Ở đâu và lúc nào cũng thế, không có sự thay đổi trong lý
tưởng của đời tôi là: chỉ muốn đóng vai trò một ca nhân tầm thường hay vĩ đại
của âm nhạc Việt Nam
trong nhiều thuở.
Nếu
có một phép lạ nào đó cho ông trở lại từ đầu với những tháng ngày kháng
chiến chống Pháp, ông sẽ hành động sau đó như đã từng làm hay khác đi? Ông
có bao giờ hối hận về những điều mình đã làm – ca khúc Bên cầu biên giới chẳng
hạn, có phải là chất chứa sự ray rứt giữa các chọn lựa với một chút
hối hận, luyến tiếc?
Nếu có một bà phù thuỷ đẹp đẽ hay xấu xí nào bắt tôi phải
đóng lại cuốn phim ấy thì tôi cũng sẽ hành động như thời xưa mà thôi, nghĩa là
vẫn đem thể xác đi theo cuộc chiến với những anh hùng ca nơi chiến khu Việt Bắc
và vẫn giữ được hồn mình với bản tình ca Bên cầu biên giới. Có gì ghê gớm đâu
mà phải hối hận hay luyến tiếc?
Chỉ
là một nghệ sĩ – vâng, chỉ có vậy thôi – thậm chí chỉ là một kẻ hát
rong, nhưng ông có cảm thấy mình quá nặng nợ với dân tộc và đất nước
Việt Nam, vượt quá vai trò của một nghệ sĩ bình thường không? Điều gì
đã đưa đẩy ông đến tư thế này từ mấy thập niên qua?
Thành thực mà nói, tôi không có thì giờ để đặt tâm trí vào
việc xét xem tôi nợ ai và ai nợ tôi trên cõi đời này – ngoại trừ việc tôi còn
nợ bao nhiêu tiền nhà băng để mua căn nhà đang ở – và lại càng không hề nuôi
cao vọng vượt qua vai trò một nghệ sĩ bình thường – tôi đã chẳng luôn luôn chỉ
nhận mình là kẻ hát rong đó sao? Điều đưa đẩy tôi đến tư thế mà anh nhìn thấy
có lẽ cũng rất giản dị: tôi là người mang bệnh workaholic, bệnh mê làm việc –
“tham công tiếc việc”, nói theo người Việt Nam mình!
Nếu
được chọn một ca khúc duy nhất đại diện cho con người và cuộc
đời sáng tác của mình để khắc vào bia đá cho thế hệ sau, ông sẽ chọn ca
khúc nào? Vì sao? (Nếu được, xin cho một vài phân tích chi tiết)
Anh bạn trẻ tuổi của tôi ơi, âm nhạc chỉ cần được nghe
thấy rồi quên đi mà không cần phải khắc đá đâu!
Giả
sử nhặt ra hình tượng người phụ nữ từ một ca khúc bất kỳ nào đó của
các tác giả Việt Nam
(trong mọi thời kỳ), rất dễ nhận thấy sự khác biệt với hình tượng
người phụ nữ trong các ca khúc của ông: người phụ nữ tự do hơn, thơ
thới hơn và đôi khi quyến rũ đầy nhục cảm nhưng lại rất thăng hoa.
Đây có phải là tư tưởng sáng tác có chủ đích từ đầu của ông? Xin ông nói
thêm về hình tượng người phụ nữ trong các tác phẩm của mình.
Xưa rày, tôi vẫn cho rằng người đàn bà đẻ ra cuộc đời, đẻ
ra vĩ nhân… cho nên trước khi xưng tụng vĩ nhân hay cuộc sống, chúng ta hãy
xưng tụng Mẹ. Trong tân nhạc Việt Nam, có lẽ tôi là người đầu tiên và bền bỉ
đưa ra những huyền thoại về Mẹ: Bà mẹ quê, Bà mẹ Gio Linh, Bà mẹ phù sa, Một mẹ
trăm con, Mẹ Việt Nam, Ru mẹ, Lời ru bú mớm nâng niu, Mẹ Maria, Mẹ Quán Thế Âm,
Mẹ năm 2000 vân vân… Trong cuộc đời có nhiều cuộc tình lang chạ, đối với những
người tình, nhiều khi tôi chỉ muốn xưng con với các bà, các cô ấy thôi!
Ông
có là một người cô đơn bởi chính tài năng và chính kiến của mình?
Tôi không bao giờ cô đơn, chứng cớ là anh đang tìm đến tôi
bằng những câu hỏi này! Chứng cớ khác nữa về sự không cô đơn là năm nay, vào
tuổi 76, tôi vẫn còn được mời đi hát ở nhiều nơi trên thế giới.
Tuấn
Khanh (Thực hiện, 1996)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét