Trịnh Công Sơn
- Tiếng hát con dã tràng -
Những hẹn hò
từ nay khép lại
Thân nhẹ nhàng
như mây…
Đóa hoa vàng
mỏng manh cuối trời
Như một lời
chia tay
(“Như một lời chia tay”)
1. Dã tràng xe cát
Trịnh Công Sơn sinh ngày
28-2-1939 tại Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk trong một gia đình gốc Huế. Hai năm
trước đó, bố mẹ ông lên đây lập nghiệp. Năm sau, sinh con trai đầu lòng, không
nuôi được. Năm tiếp theo, Trịnh Công Sơn chào đời, xem như con trưởng. Ông là
anh cả của 8 người em trai và gái, người thừa kế quan trọng trong một gia đình
trung lưu. Cha ông là một doanh nhân yêu nước và tham gia chống Pháp. Mẹ ông là
một người đàn bà nhân hậu, đảm đang và có cảm nhận nghệ thuật rất tinh tế.
Năm 1943, khi ông lên bốn,
gia đình về lại Huế, ở tại vùng Bến Ngự, một vùng đất xanh tươi, bên dòng sông
An Cựu, nơi có nhiều chùa chiền, lăng tẩm. Tiếng chuông chùa và lời cầu kinh
thấm vào hồn ông từ tuổi thơ. Điều đó giúp chúng ta hiểu vì sao những ca từ của
ông về sau mang đậm dấu ấn Thiền, Phật và giàu chất Huế.
Khi ông được 8 tuổi, gia
đình ông có cửa hàng buôn bán xe đạp và xe máy tại Sài Gòn. Ông thường xuyên
vào ra Sài Gòn – Huế. Lên trung học, Trịnh Công Sơn học ở Huế là trường Lycée
Français, rồi đổi sang trường Providence,
và tốt nghiệp tú tài ban Triết tại trường Chasseloup-Laubat, Sài Gòn. Điều đó
chứng tỏ ông là một trong những trí thức thấm nhuần nền văn minh Pháp ngay từ
khi còn rất trẻ, phần nào lý giải ảnh hưởng nền triết học phương Tây hiện đại,
như Albert Camus, J. P. Sartre…, lên cuộc sống tâm thức ông. Người có công rất
lớn trong việc đem triết học phương Tây hiện đại vào Việt Nam, gây nhiều ấn
tượng và ảnh hưởng đối với thanh niên miền Nam Việt Nam những năm 50 là Gs.
Nguyễn Văn Trung du học từ Bỉ về.
Năm 1955, khi ông 15 tuổi,
cha ông bị tai nạn giao thông qua đời. Cái chết đột ngột thảm khốc của người
cha là cú sốc đầu đời, ám ảnh ông thường trực. Từ đấy, ông luôn suy nghĩ về sự
sống và cái chết. Hẳn người ta rất ngạc nhiên khi xem ảnh thời thơ ấu của ông.
Chàng trai vui vẻ và khỏe mạnh giành nhiều giải thưởng khi thi đấu thể thao
(chạy, cử tạ, judo) này là ai vậy? Điều gì sau đó đã đưa ông trở thành một nhà
thơ – nhạc sĩ buồn bã và ốm yếu?
Năm 1957, Trịnh Công Sơn 18
tuổi. Một tai nạn bất ngờ đã thay đổi tất cả cuộc đời ông. Lúc ấy ông đang học
trung học, vào một ngày khi đang tập judo với người em trai, ông bị thương nặng
ở ngực, suýt chết và phải nằm liệt giường gần hai năm tại Huế. Không ngờ thời
gian nằm dưỡng bệnh này ông có nhiều thì giờ rảnh rỗi, suy nghĩ về kiếp người,
cảm nhận cái đẹp của thiên nhiên. Để khuây khỏa nỗi buồn ông đọc ngấu nghiến
Apollinaire, Marcel Pagnol, Jacques Prévert, Rabindranath Tagore, Marcel
Proust, Nietzsche, Nikos Kazantzakis, Albert Camus, Jean Paul Satre… ông đặc
biệt yêu thích những tác phẩm của Albert Camus, Truyện Kiều của Nguyễn Du và triết lý Phật giáo. Ông không chỉ
tiếp cận với văn học, thi ca mà còn mày mò, tìm hiểu dân ca Việt Nam,
âm nhạc của người da đen: blues, gospel v.v. [2]. Trịnh Công Sơn quyết định
chơi đàn guitare và bắt đầu sáng tác. Những ca khúc đầu tiên mang tên “Sương
đêm” và “Chơi vơi” đều chưa ấn hành. Ông từng thổ lộ: “Khi rời khỏi giường bệnh, trong tôi đã có một niềm đam mê khác – âm
nhạc. Nói như vậy hình như không chính xác, có thể những điều mơ ước, khát khao
đó đã ẩn chứa từ trong phần sâu kín của tiềm thức bỗng được đánh thức, trỗi dậy”.
Tai nạn trên là một cái rủi cho ông về thể xác nhưng là một cái may cho nền âm
nhạc Việt Nam.
Nếu như không có khúc quanh bất ngờ này, có lẽ ông đã tiếp tục chơi thể thao,
đi học tiếp và không chừng đã trở thành một ông bác sĩ, hay kỹ sư nào đó… và
chúng ta sẽ không bao giờ có được một nhạc sĩ tài hoa như ngày nay.
Ca khúc được ấn bản đầu tiên của Trịnh Công Sơn là bài
“Ướt mi”, sáng tác vào năm 1958 và công bố năm 1959, nói về giọt nước mắt thuần
khiết của một người con gái. Đó là một cô ca sĩ mới 16 tuổi, xuất hiện về đêm ở
phòng trà Văn Cảnh – Sài Gòn, đi hát để nuôi mẹ. Mẹ cô bị bệnh lao nặng nên đêm
nào khi hát bài “Giọt mưa thu” của Đặng Thế Phong cô cũng khóc. Điều ấy đã gợi
nguồn cảm hứng cho ông sáng tác “Ướt mi”. Tác phẩm này cho thấy sự thành công
qua số lượng đĩa nhạc bán được. Người hát bài này đầu tiên cũng chính là cô ca
sĩ ấy - ca sĩ Thanh Thúy – người mà sau này cũng rất nổi tiếng trong sự nghiệp
ca hát trước năm 1975. Gs. Nguyễn Văn Trung đã từng viết bài “Ảo ảnh Thanh
Thúy” để ca ngợi giọng ca đầy chất liêu
trai của cô.
Sau đó, đầu thập niên 60 là
thời kỳ Trịnh Công Sơn sáng tác rất nhiều bản nhạc tình và đã trở thành những
kiệt tác của ông. Ở Huế, thời
gian này Trịnh Công Sơn lại rung động theo hình ảnh một thiếu nữ mảnh mai, con
của một vị giáo sư dạy Pháp văn: Ngô Vũ Bích Diễm. Hình ảnh này sẽ vương lại
mãi trong trái tim ông như một vết thương không bao giờ lành hẳn. Ca khúc nổi
tiếng “Diễm xưa” ra đời, một ca khúc đánh dấu đặc biệt trong đời ông và có hậu
vận bền lâu.
Những năm 62-64, chiến tranh
Việt Nam
ngày càng tàn khốc, thanh niên hầu hết đều bị bắt đi lính. Để hoãn quân dịch,
Trịnh Công Sơn rời Huế thi vào trường Sư phạm Quy Nhơn, trường mới thành lập và
đây là khóa đầu tiên đào tạo giáo sinh trong hai năm. Nơi thành phố biển hiền
hòa, yên tĩnh này, Trịnh đã sáng tác những tình ca nổi tiếng như “Biển nhớ”,
“Nhìn những mùa thu đi”, “Nắng thủy tinh”, “Chiều một mình qua phố”, “Vết lăn
trầm”, “Dã tràng ca”, “Cát bụi". Những
tình ca của Trịnh Công Sơn đã gây kinh ngạc cho mọi người thời đó, khi mà cả
miền Nam còn quen với dòng nhạc tiền chiến sướt mướt với “Kiếp hoa”, “Nỗi
lòng”, “Khúc nhạc tương tư” hay “Lá thư”, “Tạ từ”… thì những hình ảnh mang đậm
nét siêu thực, với những ca từ lạ hóa. Lạ từ nhan đề tới hình ảnh tân kỳ trong
lời ca như: Diễm xưa, Tuổi đá buồn, Lời buồn thánh. Rồi những hình ảnh mắt xanh xao, hồn xanh buốt, hai bàn tay đói, bàn tay
chăn gió mưa… quả là độc
đáo, mang nhiều màu sắc mới lạ, đã gây sự chú ý và liền chinh phục người nghe.
Năm 1964, sau khi tốt nghiệp
trường Sư phạm Quy Nhơn, ông được điều lên Bảo Lộc dạy học. Thời gian này, cuộc
chiến ở Việt Nam
đã trở nên ác liệt. Năm 1965 quân Mỹ đặt bước chân đầu tiên lên miền Nam Việt Nam.
Phong trào đấu tranh của cả nước dâng cao. Giai
đoạn 1965 – 1972, “nhạc phản chiến” trở thành nguồn cảm hứng chủ đạo trong sáng
tác của Trịnh Công Sơn. Ông bắt đầu sáng tác những bài hát về thân phận con
người trong chiến tranh, miêu tả cuộc sống đau đớn, kinh hoàng đầy chết chóc
hàng ngày của người dân, từ những người mẹ, người vợ cho đến cụ già, em bé.
Những bài hát của ông là tiếng kêu than thống thiết của con người trong cuộc
chiến. Tiêu biểu như “Gia tài của
mẹ”, “Hát trên những xác người", “Đàn bò vào thành phố”, “Người già em
bé”, “Người con gái Việt Nam”, “Tình ca người mất trí”… Cuối cùng có lệnh tổng động viên toàn quốc, không thể
trốn tránh chui rúc mãi, ông bắt buộc tìm cách làm cho mình không đủ sức khỏe
để đi lính. Hàng ngày ông phải nhịn ăn, và uống thêm diamox, một thứ thuốc rút
bớt nước trong cơ thể làm cho sút ký nhanh, và ông đã “thành công” khi tự hủy hoại
bản thân mình với trọng lượng cơ thể không đầy 30kg. Trốn lính gần như là một
cái “nghề” đầy tính chất phiêu lưu của hàng triệu thanh niên miền Nam
lúc bấy giờ. Thái độ phản kháng ấy, chứng tỏ quyết tâm không tham chiến của
ông, ông chống chiến tranh và phản đối nó.
Dường như không khí thời đại
đã thôi thúc ông trong việc sáng tác, và một gặp gỡ định mệnh giữa ông với ca
sĩ Khánh Ly, người thể hiện tuyệt vời những nhạc phẩm của ông, đã làm nên tên
tuổi ông từ đó. Theo tài liệu của ông Bửu Ý, vào năm
1965 tại Đà Lạt tình cờ Trịnh Công Sơn nghe Khánh Ly hát trong hộp đêm Tulipe
Rouge. Ông biết ngay giọng hát của cô ca sĩ này phù hợp với những bản nhạc của
mình nên mời cô tham gia. Thời gian sau, Khánh Ly rời Đà Lạt và theo ông xuống
Sài Gòn. Từ đó cô đã trở thành “Ca sĩ chuyên hát nhạc Trịnh Công Sơn”. Hãy nghe ông nói về cuộc gặp
gỡ này: “Gặp gỡ ca sĩ Khánh Ly là một
may mắn tình cờ, không phải riêng cho tôi mà còn cho cả Khánh Ly. Lúc gặp Khánh
Ly đang hát ở Đà Lạt, lúc đó Khánh Ly chưa nổi tiếng nhưng tôi nghe qua giọng
hát thấy phù hợp với những bài hát của mình đang viết và lúc đó tôi chưa tìm ra
ca sĩ nào ngoài Khánh Ly. Tôi đã mời Khánh Ly hát và rõ ràng giọng hát của
Khánh Ly rất hợp với những bài hát của mình. Từ lúc đó Khánh Ly chỉ hát nhạc của
tôi mà không hát nhạc người khác nữa. Đó cũng là lý do cho phép mình tập trung
viết cho giọng hát đó và từ đó Khánh Ly không thể tách rời những bài hát của
tôi cũng như những bài hát của tôi không thể thiếu Khánh Ly”.
Vào cuối năm 1965, buổi ra mắt đầu tiên của ông trước
công chúng Sài Sòn là khoảnh sân sau Trường Đại học Văn khoa, với hàng ngàn
sinh viên và trí thức. Bằng chiếc đàn thùng đơn giản và giọng ca huyền thoại
Khánh Ly, những bài tình tự quê hương và thân phận con người được hát vang lên
và làm thức tỉnh, say đắm hàng ngàn khán giả cuồng nhiệt đêm đó. Tác phẩm đã
hòa nhập vào quần chúng, là tiếng lòng của quần chúng. Trịnh Công Sơn và Khánh
Ly trở thành một hiện tượng và rồi trở thành thần tượng của lớp trẻ lúc bấy
giờ.
Trịnh Công Sơn, với dáng
người mảnh khảnh, cặp kính trắng trí thức, giọng Huế nhỏ nhẹ, với cuộc sống bất
định. Đêm đi hát, khuya về kê ghế bố ngủ với bạn bè ở Quán Văn hay Hội Họa sĩ
Trẻ. Bên cạnh đó hình ảnh Khánh Ly, khi hát đi chân đất – nữ hoàng chân đất của
một thời – giọng hát da diết diễn tả nỗi trầm thống vô vọng: “tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người”.
Hai người đi với nhau tạo nên hình ảnh “đôi lứa”, một đôi trai-gái trong tình
bạn hồn nhiên, trong sáng. Tạo thành một đôi bạn trẻ, một couple ở đây rất mới, đáp lại ước mơ
hiện đại của một thế hệ thanh niên muốn phá vỡ quan niệm nam nữ thụ thụ bất thân còn đè nặng
lên xã hội Việt Nam.
Trong dư luận, họ cũng không bị nghi ngờ hay tai tiếng, dù người đời có kẻ thắc
mắc, tò mò... Những tâm hồn phóng khoáng và “hiện đại” thì gạt phăng đi loại
“tò mò bệnh hoạn ấy”. Và đặc biệt,
Trịnh Công Sơn là người tăm tiếng mà không tai tiếng. Sơn nói: “Tôi và Khánh Ly chỉ là hai người bạn. Thương nhau vô
cùng, trên tình bạn”. Khánh Ly viết: “Một mối liên hệ cao hơn, đẹp đẽ hơn, thánh thiện hơn là
những tình cảm đời thường”. Nhưng trên hết, chính hình ảnh Trịnh Công Sơn và Khánh Ly thường đi hát
cộng đồng, nghĩa là hát không công, không lấy thù lao, chủ yếu là cho thính giả
trẻ, tại các giảng đường, trường học, đã tạo ra một hình ảnh lý tưởng cho nghệ
thuật, nhất là nghệ thuật ca hát – mang theo lý tưởng nhân đạo và tình yêu thể
hiện sự dấn thân của người nghệ sĩ. Trong khi đó, đa số các ca sĩ, nhạc sĩ khác
hát để lấy tiền. Trong một lần trả lời phỏng vấn
nhà báo Bùi Văn Phú, Khánh Ly kể lại giai đoạn cơ cực đói khổ nhưng đầy
hạnh phúc những năm 60 ấy: “Thực sự tôi
rất mê hát. Không mê hát thì tôi không có đủ can đảm để đi hát với anh Sơn mười
năm mà không có đồng xu, cắc bạc nào, phải chịu đói, chịu khổ, chịu nghèo,
không cần biết đến ngày mai, không cần biết tới ai cả, mà chỉ cảm thấy mình
thực là hạnh phúc, cảm thấy mình sống khi mình được hát những tình khúc của
Trịnh Công Sơn”.
Năm 1969 nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn nổi tiếng
khắp thế giới, ông được xem là một Bob Dylan của Việt Nam. Năm 1970 Bài “Diễm xưa” được vào
chung kết cuộc thi các bài hát nước ngoài ở Nhật, bài “Ngủ đi con”
chiếm “đĩa vàng” và đã phát hành trên hai triệu đĩa. Trịnh Công Sơn từ đó trở thành
thần tượng - kẻ du ca bất khuất - trên đất nước đầy bom đạn. Những sáng tác
tiếp theo của ông với những ca từ mạnh mẽ, trong tập Kinh Việt Nam
hay Ta phải thấy mặt trời, Nhân
danh Việt Nam là tiếng kêu
gọi hòa bình và thống nhất đất nước. Những tác phẩm của ông bị chính quyền Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu cấm phát hành. Bản thân ông bị truy lùng, bắt bớ. Nhưng
ông được nhiều trí thức và quần chúng cưu mang. Trong đó có đại tá Lưu Kim
Cương một sĩ quan cao cấp trong không quân miền Nam
Việt Nam
đã che chở và giúp đỡ ông rất nhiều trong thời gian khốn khó ấy. Sau khi đại tá
Lưu Kim Cương mất, ông viết bài “Cho một
người nằm xuống” để tri ân một
người bạn đã từng cưu mang mình và chính bài hát này về sau là nỗi khổ của ông.
Tháng 4/1975, chiến tranh chấm dứt, ông là người đầu tiên
lên Đài Phát thanh Sài Gòn hát vang bài
“Nối vòng tay lớn”, một bài hát
nói lên niềm khao khát hòa bình, thống nhất. Ước mơ hòa hợp dân tộc hai miền
Nam-Bắc, được ông viết từ năm 1968. Ngày 30/4 người thân ông ra đi, bạn bè ông
ra đi, Khánh Ly rời đất nước trước ngày Sài Gòn sụp đổ. Ông ở lại, bởi vì đó là
logic của một con người ước mơ được nhìn thấy: ngày hòa bình thống nhất trên
quê hương.
Bàn tay thân ái
Lòng
không biên giới
Anh
em ơi lắng nghe tình nhau
Ngày
vui lớn sẽ qua trăm cầu
Mẹ
dâng miếng cau rồi dâng ngọn trầu
Cho
hai miền trùng phùng lòng thấy nao nao
Ngày
Nam đêm Bắc
Tình
chan trong mắt
Sẽ
thấy trăm bình minh ngọt ngào
(“Huế-Sài Gòn-Hà Nội")
Tại sao ông ở
lại Việt Nam
?
Trước ngày 30/4/1975 có
nhiều lời mời đưa ông ra nước ngoài của các hãng Thông tấn quốc tế. Ông nói: “Việt Nam
là nơi duy nhất tôi có thể sống và sáng tác. Ở nước ngoài, tôi không nghe ra
tiếng nhạc trong đầu mình, tôi không nghe được câu thơ tôi viết ra. Tôi thích
đi nước ngoài, nhưng nếu ở lâu, tôi sẽ khô cạn và chết mất. Hơi ấm của dân tộc
Việt Nam
giống như nước cần thiết cho hoa vậy”.
Thế nhưng, tình hình của
Trịnh Công Sơn thật khá tế nhị trong thời kỳ sau 1975. Những ngày đầu sau cuộc
chiến, không khí chính trị còn ấu trĩ, tả khuynh quá đà của một số người trong
chính quyền Cách mạng. Ông bị coi là một nghệ sĩ của chế độ “mục nát” của miền Nam.
Theo nhà nghiên cứu xứ Huế Nguyễn Đắc Xuân, giai đoạn sau tháng 4/1975 “Đối với lãnh đạo thì không có vấn đề gì, nhưng có nhiều
“anh em phong trào” ở Sài Gòn không thích quan điểm lập trường chung chung của
Trịnh Công Sơn trước đây”. Vì vậy, để thoát khỏi “không khí nghi kỵ” ở Sài Gòn
lúc ấy, Trịnh Công Sơn về Huế. Thế nhưng, thời gian đó một số phần tử quá khích
theo phong trào “Vệ binh đỏ” của Trung Quốc đã kích động sinh viên treo một tấm
banderole to tướng mang dòng chữ xanh rờn: “Hạ bệ Phạm Duy – Hoàng Thi Thơ và
Trịnh Công Sơn” trước trường Đại học Sư phạm Huế. Ông sững sờ và câm lặng.
Không ngờ về quê hương ông lại bị giội một gáo nước lạnh như thế. Và tiếp theo
là cuộc tọa đàm luận tội “Trịnh Công Sơn có công hay có tội” tại Hội Văn nghệ
Thừa Thiên – Huế. Hôm ấy có cả Trần Hoàn, Tô Nhuận Vỹ, Nguyễn Khoa Điềm, Hoàng
Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Trần Viết Ngạc và vài người nữa… Có người lên
án, nhưng cũng có người bảo vệ. “Tội” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là ông đã làm
nhạc phản chiến một cách chung chung, không phân biệt được chiến tranh xâm lược
và chiến tranh giải phóng dân tộc trong bài “Gia tài của mẹ” với câu Hai mươi
năm nội chiến từng ngày. Thậm chí ông còn làm nhạc ca ngợi địch trong bài “Cho
một người nằm” xuống thương tiếc đại tá không quân Sài Gòn Lưu Kim Cương tử
trận – người đã từng cưu mang ông. Nhiều người phát biểu biện hộ cho Trịnh Công
Sơn: “Đúng là Trịnh Công Sơn đã làm nhiều bản nhạc phản chiến, anh được mệnh
danh là người làm nhạc phản chiến số 1 thời ấy giống như Bob Dylan, Joan Baez ở
bên Mỹ. Trịnh Công Sơn là một nhạc sĩ tự do, anh theo đuổi chủ nghĩa nhân bản
chung chung khác chúng ta. Nhưng anh làm nhạc trong vùng tạm chiếm, người nghe
nhạc phản chiến của anh là lính Cộng hòa. Rất nhiều lính của Thiệu đã bỏ ngũ vì
nghe bản nhạc Người con gái da vàng của anh. Chẳng có người lính cách mạng nào
bỏ ngũ vì nghe nhạc của Trịnh Công Sơn cả. Đâu phải tự dưng chính quyền Thiệu
ra lệnh tịch thu những bài hát của Sơn”. Và chính xấp tài liệu đăng lệnh của
cựu Tổng thống Thiệu cấm phổ biến nhạc Trịnh Công Sơn, lệnh cấm mang số 33 ngày
8.2.1969, đã có sức thuyết phục lớn đối với những người tham dự tọa đàm. Sau
cuộc tọa đàm, Trịnh Công Sơn phải viết kiểm điểm. Hồi ấy, những bản kiểm điểm
nói không đúng vấn đề thường bị viết lại. Trịnh Công Sơn chưa quen lối sinh
hoạt này nên rất đau khổ và tuyệt vọng, chán chường.
Trong thời hậu chiến này, cả
nước rất khó khăn và như bao người Việt khác, Trịnh Công Sơn cũng được điều đi
lao động sản xuất, khi thì trồng khoai lang, lúc cấy lúa trên những cánh đồng
đầy bom đạn chưa tháo gỡ. Thời gian này, ông không thể sáng tác được, làm sao
một người làm tình ca mang tính triết lý trừu tượng nổi tiếng lại một sớm một
chiều có thể chuyển mạch bắt sáng tác theo “hiện thực xã hội chủ nghĩa được”. Bên cạnh thực tế ấy, Trịnh Công Sơn lại không đủ sức
chống đỡ với những thế lực khác kèn cựa tài năng mình. Có người còn tuyên bố
xanh rờn: “Ca khúc mà như của Trịnh Công Sơn thì một ngày mình có thể làm đến
mười bài!”.
Hiểu được bi kịch của ông, và biết rõ tài năng, nhân cách
của người nhạc sĩ tài hoa này, một nhà lãnh đạo nổi tiếng ở phía Nam đã đánh
tiếng gọi ông về lại Sài Gòn. Năm 1979, Trịnh Công Sơn từ giã Huế vào Sài Gòn.
Từ những năm 1980, Trịnh Công Sơn bắt đầu sáng tác lại.
Tác phẩm của ông sau chiến tranh có những bài nổi tiếng như: “Chiều trên quê hương tôi”, “Em còn nhớ hay em đã quên”,
“Huyền thoại mẹ”, “Hà Nội mùa thu”, “Tiến thoái lưỡng nan”, “Tôi ơi đừng tuyệt
vọng”, “Lặng lẽ nơi này”, “Xin trả nợ người", “Lời thiên thu gọi"… Những sáng tác này thường là tình ca, không có bài hát
nào liên quan đến chiến tranh, chủ yếu là những tác phẩm viết cho các phim.
Những tác phẩm sau này thường nói lên thân phận con người, kiếp người trong cõi
tạm, mang đậm chất Thiền.
Năm 1983, Trịnh Công Sơn
chuẩn bị cưới vợ lần thứ nhất, người phụ nữ ấy có tên là C.N.N sống ở Paris, Pháp. Thư từ Sài
Gòn gửi cho Bửu Ý ngày 30.7.1983 Trịnh viết: “Moi sẽ làm đám cưới trong tháng tới. Cố gắng vào thì vui hơn”
nhưng dự định cưới vợ không thành.
Năm 1989, ông sang Pháp theo
lời mời của Nhà Việt Nam tại
Paris. Tại đây,
ông tham dự các chương trình giới thiệu tác phẩm của mình, ông bình luận và hát
một vài đoạn nhạc. Ông đã gặp Khánh Ly tại Paris sau 14 năm xa cách, tuy nhiên
không thể tổ chức được gì dù có sự hiện diện của hai nhân vật nổi tiếng một
thời này, vì ở hải ngoại
một số người cực đoan cũng bài xích ông là “kẻ hèn nhát, kẻ phản bội quốc gia”.
Năm 1990, Trịnh Công Sơn
chuẩn bị cưới vợ lần thứ hai, người phụ nữ này là V.A, lễ cưới đã chuẩn bị
xong, cô dâu đã may áo cưới, nhưng đến phút cuối ông lại khước từ hạnh phúc.
Trong tình yêu ông vẫn là chàng lãng tử cô độc
“Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ”… cho đến cuối đời.
Năm 1992, sau khi mẹ mất,
ông suy sụp hoàn toàn, ông sang Canada
thăm những người em, để mong tìm chút hơi ấm tình thân. Trịnh Công Sơn viết: “Khi một người mất mẹ ở tuổi 50 điều ấy có nghĩa là không còn gì có thể dàn xếp được. Cái sa mạc để lại
trong lòng bạn cứ thế mỗi ngày lan rộng ra và cõi lòng bạn thì tan nát như một
cánh đồng xanh tươi vừa trải qua một cơn bão lớn”.
Những năm 90 sau thời kỳ đổi
mới của đất nước, nhạc của ông lại được hát rất nhiều trong các chương trình ca
nhạc, chủ yếu là những bản tình ca. Những bài hát phản chiến rất hay của ông
vẫn là điều tế nhị cấm lưu hành. Năm 1995, ông
sáng tác bài “Sóng về đâu” một bài hát nói về tình yêu lấy cảm hứng từ câu kinh
đạo Phật mà ông rất thích: “Gate, Gate, Paragate, Parasamgate, Bodhi Svaha” (Yết
đế, Yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha). Trịnh Công Sơn
dịch ra chữ quốc ngữ đại để là: “Vượt qua,
vượt qua, tất cả chúng ta đều vượt qua, và đến bờ giác ngộ”.
Cuối năm 1999, sau 36 năm ra
trường, lần đầu tiên ông trở lại Trường Sư phạm Quy Nhơn cùng nhóm “Những người
bạn” dịp Quy Nhơn tổ chức kỷ niệm Thành phố 400 năm tuổi. Cùng đi với ông lúc
ấy có các nhạc sĩ tên tuổi khác như Trần Long Ẩn, Tôn Thất Lập, Thanh Tùng,
Nguyễn Ngọc Thiện, Nguyễn Văn Hiên… Đó là một đêm đầy cảm động. Cả hội trường
Đại học Quy Nhơn nghẹt kín sinh viên. Có những bài ông vừa hát, khán giả phụ
họa hát theo như một dàn đồng ca đã được tập dượt trước. 12 giờ đêm chương
trình chấm dứt nhưng các sinh viên vẫn quây lấy ông chụp hình kỷ niệm. Ông xúc
động kể lại những năm tháng ông học tại Sư phạm Quy Nhơn thời 62-64, và hát say
sưa không biết mệt. “Festival Huế 2000” là một sự kiện văn hóa của cả nước,
Trịnh Công Sơn về Huế tham dự. Trở lại Sài Gòn, ông ngã bệnh phải đưa vào bệnh
viện. Những năm sau này ông thường xuyên bị bệnh. Sức khỏe giảm sút rõ rệt.
Ca khúc cuối cùng ông sáng tác trên giường bệnh là bài “Biển nghìn thu ở lại". Và ngày 01/4/2001 Trịnh Công Sơn qua đời, “con chim nhỏ
hát chơi trên đầu ngọn lau” không còn nữa, vết chim hạc để lại trên cõi trần đúng
62 năm.
Cái chết của Trịnh Công Sơn
làm chấn động những người dân Việt cả trong nước và ngoài nước. Hàng triệu trái
tim lặng lẽ khóc thương, hàng ngàn người đi sau linh cữu ông, chưa có một đám
tang nào mà mọi người lại yêu thương nhau đến vậy, tất cả cùng nắm tay và hát
trong nước mắt bài “Cát bụi" và “Một cõi đi về” theo tiếng kèn thống thiết
của Trần Mạnh Tuấn. Người đời tinh lắm, Trịnh Công Sơn đã cho cuộc đời trái tim
ông, ngày ông mất người đời đã cho lại ông tất cả.
“Tôi ước mơ một ngày nào đó trên hành tinh này tiếng hát
sẽ được trả về với vẻ đẹp thuần khiết của nó. Đó là tiếng hát bay qua các lục
địa, các đại dương, mang trong lòng nó tình yêu và tình nhân ái. Cái sứ mệnh
huy hoàng nhất của nó là phải mang được cái thông điệp ấy đến với từng con tim.
Không những chỉ với những tâm hồn vốn yêu chuộng hòa bình mà cả những con tim
đang ngộ độc bởi những ngòi thuốc nổ”.
2. Vết chân dã
tràng ngàn năm in dấu
Ngày tôi chào đời, nhạc của
Trịnh Công Sơn đã nổi tiếng khắp miền Nam. Ngay từ thời thơ ấu, tôi đã
thuộc lòng những bài hát của ông. Ngày ấy, dù không hiểu gì về ca từ bài hát
nhưng qua tiếng hát của những người chị ngâm nga, hàng ngày, hàng ngày nó thấm
vào tim tôi “Mẹ ngồi ru
con/Đong đưa võng buồn/Đong đưa võng buồn/ Mẹ ngồi ru con/ Mây qua đầu
ghềnh/Lạy trời mưa tuôn”… “Đại bác ru đêm dội về thành phố / Người phu quét
đường dừng chổi lắng nghe/”. Thời ấy, thế hệ chúng tôi ai
lại không thuộc nhạc của ông, khi hàng đêm chúng tôi vẫn thường nghe tiếng súng
nổ, tiếng hỏa châu rơi… giai điệu buồn bã, đều đều như tiếng cầu kinh ấy, đã
quá quen thuộc. Đến khi lớn
lên, khi bắt đầu hiểu biết và trải nghiệm cuộc đời, những ca từ thấm đẫm tình
yêu thương và thân phận con người của Trịnh Công Sơn đã là người bạn đồng hành
cùng tôi trong từng chặng đời. Nó như một thứ bùa mê mà mỗi con người đều mang
theo để làm cứu cánh khi thấy lòng cô đơn, buồn khổ, hay trong những lúc hân
hoan, say đắm.
Không chỉ riêng tôi, trên đất nước Việt Nam này, ảnh
hưởng của Trịnh Công Sơn rất to lớn, gần như người dân Việt nào cũng đều thấy
mình trong từng bài hát của ông. Ông nói hộ cho con người những âu lo, những vò
xé, những thao thức, những đớn đau, những tiếc nuối, những ngỡ ngàng và cả
những hoài nghi, những mê đắm… về thân phận con người, về chiến tranh nhân
loại, về tình yêu thương gắn bó, về sự tan nát chia xa… ông đi cùng với họ, an
ủi, tâm tình bên họ. Có ông cuộc đời như vơi bớt niềm đau, cái chết cũng không
còn ghê gớm nữa. Vì ông đã giúp họ hiểu ra sự thật của kiếp người. Vậy thì, tại
sao không sống thanh thản cho đời nhẹ nhàng hơn.
Trước năm 1975, mặc dù nhạc
phản chiến của Trịnh Công Sơn bị chính quyền miền Nam cấm đoán, nhưng nhạc của
ông vẫn được hát không chính thức trên các giảng đường, trường học, hộp đêm.
Những bài tình ca, những bài tình tự quê hương dân tộc vẫn được thu băng và bày
bán khắp các đường phố. Có không ít người miền Nam Việt Nam vào thời đó thuộc bài hát của
ông, từ người già đến em bé, từ trí thức đến người bình dân.
Để hiểu rõ điều đó, hãy nghe nhận định của Hoàng Nguyên
Nhuận: “… nếu Huế là thánh địa của
Phật giáo và nếu bản nhạc Phật giáo Việt Nam của Lê Cao Phan là nhịp đạo hành
của thanh niên Phật tử, thì Trịnh Công Sơn chính là nhịp đập con tim của phong
trào thanh niên trên đường vận động hòa bình, độc lập và an lạc cho đồng bào
đồng loại tại các thành phố miền Nam …”.
Trong luận văn viết về đề
tài “Nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn”, cô Yoshii Michiko có đề cập đến một
tư liệu của Kondo Koichi, đặc phái viên chiến tranh tờ SanKei của Nhật - có văn phòng tại Sài Gòn trước 1975 - đã từng
nhắc đến hiện tượng này: “Diễm xưa”:
thiên tài Trịnh Công Sơn đã soạn ra giai điệu của bài hát này, bài hát đã được cả miền Nam Việt Nam yêu thích. Người ta nói rằng nữ ca sĩ Khánh Ly, cũng là một trong
những tài năng mà người ta chỉ gặp một lần trong suốt 100 năm. Bài
hát này bị cấm dưới chế độ ông Thiệu sau khi phát hành không lâu. Lối ẩn dụ
chống chiến tranh ở đây quá đặc biệt. Và trong số họ có một người cấp bậc đại
úy dường như anh đã có lý khi chứng tỏ sự hiểu biết của mình về điều đó. Thực
tế, một vị đại tá của một trung đoàn có
nhiệm vụ bảo vệ Đà Lạt đã nói: “Nghệ thuật là
nghệ thuật. Phản chiến hay không, người ta không cần biết”. Và đã không nghe theo lệnh của tổng hành dinh. Ngược
lại, ông đã khích lệ cả những binh lính của ông, hát những kiệt tác của “thiên
tài duy nhất mà miền Nam
Việt Nam
có thể ca ngợi với thế giới.”
Một nhà báo Nhật khác thường
lui tới hộp đêm của Khánh Ly trên đường Tự Do kể: “Hàng đêm vào
đầu giờ, người ta chỉ nghe những bài hát cho phép, nhưng đêm gần tàn, Khánh Ly
bắt đầu hát những bài hát phản chiến của Trịnh Công Sơn, và trên thực tế, công
chúng chỉ đến để nghe những bài hát này”.
Điều đó chứng tỏ, những bài
hát phản chiến của Trịnh Công Sơn dù đã bị cấm đoán trong thời chiến tranh
nhưng người dân vẫn hát vang trên khắp phố phường, làng mạc. Vẫn được đánh máy,
in ronéo chuyền tay nhau trong các phong trào thanh niên và ngay cả trong những
sĩ quan cao cấp của chính quyền miền Nam.
Nhạc Trịnh Công Sơn ảnh hưởng rộng rãi ở miền Nam trước 1975
chúng ta đã biết, thế còn ở miền Bắc thì sao? Những nhân chứng dưới đây giúp
chúng ta sáng tỏ: Văn Cao viết: “…tôi đã gặp
Sơn từ những ngày đất nước còn chia hai miền và còn chìm trong khói lửa. Tôi
muốn nhắc đến ở đây một kỷ niệm không thể quên ở nhà một người bạn trẻ. Đêm ấy
lần đầu tiên tôi nghe (cũng có nghĩa là gặp) Trịnh Công Sơn… Những bạn trẻ hát
cho tôi nghe gần suốt đêm hàng loạt ca khúc Trịnh Công Sơn (không biết họ học ở
đâu?) hát say sưa đến nỗi đứt cả dây của cây đàn ghi–ta duy nhất có trong nhà”
Nhà thơ Nguyễn Duy kể rằng,
ở dọc Trường Sơn, bộ đội Miền Bắc cũng đã từng nghe tình ca của Trịnh: “Mặt trận Đường Chín–Nam Lào (1971)… trong
căn hầm kèo bên dòng sông Sêbănghiêng… Nghe, nghe trộm – vâng, lúc đó gọi là
nghe trộm đài Sài Gòn, tình cờ “gặp”
Trịnh Công Sơn qua giọng hát Khánh Ly… Diễm xưa… Mưa vẫn mưa rơi… làm sao em
biết bia đá không đau… Quỷ thật! Giai điệu ấy và lời ca ấy tự nhiên “ghim” lại
trong tâm tưởng tôi ngay từ phút bất chợt ấy. Rồi Như cánh vạc bay… Quái thật!…
Cảm nhận bất chợt, những bài hát rất mượt mà, đắm đuối ấy… ừ thì có buồn đấy,
đau đấy, quặn thắt nữa đấy… nhưng còn là cái gì lành mạnh nảy nở trong đó. Hình
như là cái đẹp. Cái đẹp trong câu nhạc. Cái đẹp trong ca từ, cả xác chữ lẫn hồn
thơ. Bảng lảng, lờ mờ, khó phân định cho đúng nghĩa, nhưng rõ ràng là đẹp, đẹp
làm sao… và để lại cái ám ảnh thẩm mỹ”.
Nhà văn Nguyễn Văn Thọ,
trước đây là bộ đội miền Bắc, hiện ở Berlin viết: “Năm
1972, khi ấy tôi là bộ đội trong rừng Trường Sơn. Thằng bạn tôi, sau chiến dịch
Lam Sơn 719 vớ được cái đài Sony rất tốt. Đêm Trường Sơn, chờ cho mọi người đi
ngủ hết, chúng tôi lén mở đài BBC và cả đài Sài Gòn. Đấy là lần đầu tiên tôi
được nghe tiếng hát Khánh Ly với nhạc Trịnh Công Sơn. Chúng tôi là lớp người
lớn lên từ Miền Bắc, thường quen với những khúc thức hùng tráng. Trong tiếng
chộn rộn rú rít của sóng vô tuyến, tôi vẫn thấy một giọng lạ của một thứ âm
nhạc mới. Một thứ nhạc da diết, đầy lãng đãng từ ca từ, tới khúc thức. Một thứ
nhạc xanh không giống bất cứ nhạc xanh nào mà tôi từng nghe, kể cả trong những
đĩa hát quay tay cổ mở suốt ngày rên rỉ ở đầu chợ trời những ngày sau hòa bình.
Rất lạ, với tôi khi đó nhạc Trịnh Công Sơn như làn gió khởi từ xa xăm đâu đó,
tách khỏi hận thù trận mạc, tha thiết một tình yêu đồng loại, giống nòi, yêu bè
bạn, hòa bình, đạo lý. Nó lạ, vì lối ca từ phi tuyến tính, không giống cách
viết truyền thống trên những ca khúc của Hà Nội khi đó.” Và đáng quý hơn nữa, nhà văn này đã
ghi lại cảm giác khi tiến quân vào Sài Gòn trưa ngày 30/4/1975, ông nghe Trịnh
Công Sơn đang hát bài “Nối vòng tay lớn” trên đài phát thanh Sài Gòn: “Mặt đất
bao la… anh em ta về… gặp nhau trong bão lớn quay cuồng trời rộng… Lời ca không
phải là tiếng thách thức tử thủ. Lời ca không phải là tiếng bể máu như kết cục
thường thấy của chiến cuộc, lời ca khi ấy làm chùng xuống không khí thù hận và
hằn học. Chúng tôi tiến vào Sài Gòn… Nối vòng tay lớn. Chiến tranh nào bao giờ
chẳng có mặt trái, nhưng tiếng hát kia, bản nhạc ấy, mở ra cho cả hai bên nghe
như một liều thuốc vô hình đã làm chùng xuống một thời khắc dễ nổi cáu và nổi đóa.
Đấy là kỷ niệm thứ hai của tôi về anh”. Tiếng hát làm chùng tay súng. Một ngày,
một giờ mà sinh mệnh của hằng triệu con người nằm trên đường tơ kẽ tóc, một sự
kiện như thế không trọng đại hay sao? Văn học nghệ thuật Việt Nam đã bao nhiêu lần đóng vai trò
đó?
Sau năm 1975, một thời gian
dài nhạc Trịnh bị cấm biểu diễn kể cả những bài tình ca và những bài tình tự
quê hương, dân tộc. Cho đến cuối những năm 80 đầu những năm 90 - thời mở cửa,
nhạc Trịnh Công Sơn mới được chính thức phổ biến. Tuy nhiên, trong những năm
chính quyền không cho phép, mặc nhiên người dân ở cả hai miền Nam – Bắc vẫn
nghe nhạc của ông trên khắp nẻo đường đất nước, từ những nơi núi rừng heo hút
cho đến chốn thị thành.
Nhạc của ông cũng truân chuyên như cuộc đời ông vậy.
Nguyễn Đắc Xuân kể lại rằng:
“Sau ngày thống nhất đất nước, cùng
với hàng hóa tiêu dùng của miền Nam, các băng nhạc của Trịnh Công Sơn bắt đầu
xâm nhập giới trí thức miền Bắc. Đứng trên lầu 51 Trần Hưng Đạo (Hà Nội) – Cơ
quan Văn nghệ miền Bắc, tôi nghe vang vọng từ phía Nhà xuất bản Văn học một gia
đình nào đó mở “Gia tài của mẹ”, “Nối vòng tay lớn”… của Trịnh Công Sơn”. Đi từ
Nam
ra Bắc, chúng ta dễ dàng bắt gặp những quán cà phê mang tên “Nhạc Trịnh” hay
mang tên tựa đề bài hát của ông: “Hạ trắng”, “Diễm xưa”, “Biển nhớ”… Dấu ấn
ngôn ngữ của Trịnh Công Sơn còn bàng bạc trên văn chương của người đương thời.
Ngày nay, đi đến bất cứ nơi
đâu trên trái đất này, nếu có cộng đồng người Việt sinh sống, thì nơi đó có
nhạc Trịnh Công Sơn. Nhà văn Nguyễn
Quang Sáng viết: “Hơn mười năm
qua, đi đâu, bất cứ nơi nào, trong nước hay ngoài nước, nơi nào có người Việt
Nam, là nơi đó tôi được nghe nhạc Sơn. Nhớ năm 1987, trong dịp sang Đông
Berlin, khi tôi vừa ngồi yên trong xe, thì anh bạn lái cho tôi bảo: “Nghe Trịnh
Công Sơn nhé?”. “Có à?”. Tôi ngạc nhiên. “Sao lại không!” và giọng của Khánh Ly
“Mưa vẫn mưa bay trên từng tháp cổ…” lại cùng tôi vang trên các nẻo đường Đông Berlin trong đêm thu.”
Tại
Paris, quận 13… Một hôm tôi
đến, vào một quán phở, một cái quán có nhiều khách chống Sơn: lạ, tôi lại nghe
họ mở nhạc của Sơn. Rồi đầu tháng 7.1989 ngồi trong một quán ăn Việt Nam ở New
York, trong ánh đèn mờ, tôi cũng lại nghe nhạc của Sơn… Hóa ra người ghét Sơn,
chống Sơn vẫn không thể không nghe nhạc Sơn. Từ đó, có thể nói, nghệ thuật của
Trịnh Công Sơn đã vượt qua khỏi sự hằn thù…”
Hãy nghe những
lời phát biểu
về tầm ảnh hưởng
của Trịnh Công Sơn:
Nhà thơ Phạm
Tiến Duật: Gần nửa thế kỷ sáng tác ca khúc, hành trình
của Trịnh Công Sơn là hành trình của một trái tim yêu người, yêu giống nòi,
luôn luôn tìm cách trả lời những câu hỏi không phải của khối óc mà là câu hỏi
của chính trái tim anh đặt ra, trong đó, sự trăn trở giữa cái bản ngã và phi
bản ngã là sự trăn trở thường trực… các nhà thơ từ Nam đến Bắc đều coi anh là
thi sĩ.
Nhà văn Phạm
Thị Hoài: Thế kỷ vừa rồi hiếm khi cho chúng ta một
nghệ sĩ đặc biệt như thế. Ông không phải là một trong những nhạc sĩ lỗi lạc
nhất, song hầu như không ai khác từ lúc sinh thời đã để lại một ảnh hưởng rộng
rãi như vậy với người làm nhạc và người nghe nhạc Việt Nam. Ông không phải là một ca sĩ
trứ danh, song ông đã được so với Bob Dylan, và đem lại cho danh hiệu kẻ du ca
một ý nghĩa hiện đại. Ông không phải là một trong những nhà thơ sáng giá nhất,
song cách ông đặt lời bài hát đã thành một trường phái và dựng nên một phong
cách ngôn ngữ xứng đáng được ghi nhận trong lịch sử văn học Việt Nam.
Ông không phải là một trong những chiến sĩ của hòa bình, tự do và nhân phẩm kiên cường nhất, song với đông đảo bạn hữu và quần
chúng, ông đã tượng trưng cho những giá trị ấy…
Nhà thơ Nguyễn
Trọng Tạo trong bài “Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, người tình lãng du của nhiều thế
hệ”, đã tự hỏi:
“… vì sao mà nhạc sĩ Trịnh Công Sơn
được công chúng hâm mộ đến thế? Có lẽ chính anh là một nhà thơ được hát lên. Ca
từ của anh không chỉ là giàu chất thơ người ta thường nói, mà đấy là những bài
thơ thực sự, những bài thơ thấm đẫm triết lý về cuộc sống, về tình yêu, về sự
sinh ra và trở về cát bụi của phận người ngắn ngủi… Khi được nhờ chọn một số
bài thơ tình hay nhất thế kỷ, nhà nghiên cứu văn học Hoàng Ngọc Hiến đã tâm đắc
tiến cử lời bài ca “Đêm thấy ta là thác đổ” của Trịnh Công Sơn. Nhưng những lời thơ ấy được hát lên bằng nhạc của
chính tác giả, thì nó bỗng trở thành những câu kinh bất hủ. Và người ta nói
rằng, âm nhạc của anh là những bài kinh cầu bên vực thẳm về thân phận và tình
yêu”
Đó là nhận
định của các nhà thơ, nhà văn nổi tiếng. Và chúng ta hãy nghe tình cảm chân
thành của những con người bình thường khác, đó là những người mẹ nhọc nhằn,
những cô gái ăn sương, những em bé không hề biết ông là ai, nhạc Trịnh Công Sơn
đã ảnh hưởng họ như thế nào: “Bà mẹ vợ của tôi, chồng bị
bệnh nằm một chỗ đã nhiều năm, một tay nuôi 8 đứa con dại. Mùa hè năm 1975, cậu
con trai thứ hai lại bị mất tích trên đường theo bộ đội vào giải phóng Sài Gòn.
Bà hết sức đau khổ. Hằng ngày đứng nấu cơm rửa chén phục vụ gia đình bà tự an
ủi mình với “Cỏ xót xa đưa”. Bà mẹ đẻ của tôi ở Đà Lạt, hơn nửa đời người vất
vả nuôi con, cuối đời rất sùng đạo Phật. Bà thích nghe nhạc Trịnh Công Sơn vì
bà cho rằng nhạc Trịnh Công Sơn có hơi hám “cát bụi giải thoát”. Người ta nói
âm nhạc Trịnh Công Sơn chỉ thích hợp với tuổi trẻ. Các bà mẹ tôi không còn trẻ
nữa mà cũng thích nhạc Trịnh Công Sơn. Các bà thích không vì tuổi còn yêu mà
chính là nhạc Sơn đã nói hộ các bà về thân phận của kiếp người sống trong cõi
tạm. Các bà mẹ tôi thích nhạc Trịnh Công Sơn khi chưa biết Trịnh Công Sơn là
ai. Cũng giống như các em bé trên miền núi huyện Hướng Hóa (Quảng Bình) vào
những đêm trăng quây quần giữa sân hát vang “Em sẽ là mùa xuân của mẹ, em sẽ là
màu nắng của cha…”, các em không biết tác giả bài ca ấy là ai. Các em cũng
không cần biết tác giả làm gì. Các em chỉ cần biết lời của bài ca đó chính là
ước mơ của các em”. Ngoài ra, còn có một chứng từ khác của nhà văn Hoàng
Phủ Ngọc Tường về các cô gái ăn sương: “Cách
đây mấy năm, một đêm khuya tôi vừa uống rượu về, ngang qua công viên nhà thờ
Đức Bà, Sài Gòn; từ sau một gốc cây, một cô gái mặc áo hồng bước ra, kéo tay
tôi. Tôi ôn tồn từ chối. Liền sau đó, một cô áo đỏ, rồi áo lục… toàn là nhan
sắc hương phấn, giống như trong Hồng lâu mộng. Tôi liền khoát tay ra hiệu mình bị nhiễm HIV nặng, các em lập tức dãn
ra… Lúc này tôi mới để ý tới giọng hát khe khẽ từ bóng tối bên vệ đường… một cô
gái áo đen… vẫn ngồi đấy từ đầu. Không thèm bận tâm gì tới cuộc ríu rít của
những “đồng nghiệp” của cô vây quanh tôi, chỉ mải chìm đắm trong giai điệu của
bài hát mà cô yêu thích, và tôi nghe rõ: “Đi về đâu hỡi em. Hãy lau khô dòng
nước mắt. Đời gọi em biết bao lần”. Tôi thầm hiểu rằng đến với cô gái bất hạnh trong phận người lúc này, quả không thể là
Phạm Duy hoặc bất cứ nhạc sĩ nào khác, mà chính là Trịnh Công Sơn”.
Những bài hát của
Trịnh Công Sơn
đã phổ biến và
ảnh hưởng sâu rộng
không chỉ trong
lòng người dân Việt Nam,
mà còn lan xa
trên thế giới.
Ở Mỹ, người ta coi ông như là một
Bob Dylan của người Việt và ông được mời sang sống ở đó như là một người dân di
tản với mức thu nhập bảo đảm cuộc sống an nhàn.
Ở Pháp, Mỹ,
Nga, Đức, Nhật
có nhiều bài báo viết về Trịnh Công Sơn như nhà báo Jean- Claude Pomonti,
Jacques Boyer (Pháp), Murray Hiebert, Jon Liden, John Schafer (Mỹ), Frank Gerke
(Đức), Irina Zisman (Nga)… và nhiều bài hát được dịch sang tiếng Pháp, Nhật.
Năm 1970 ở Nhật Bản, bài
“Diễm xưa” được tuyển vào vòng chung kết những bài hát hay của nước ngoài và
bài “Ca dao Mẹ” được giải “đĩa vàng” và bán được hai triệu bản. Tiếp theo thành
công này, vào năm 1972, Mainichi Broadcasting đã đề nghị Trịnh Công Sơn sáng
tác một bài hát đặc biệt dành tặng cho Hiroshima và Nagasaki. Và Trịnh đã sáng
tác ca khúc “Như tiếng thở
dài”. Nhạc
Trịnh đặc biệt được người Nhật yêu thích, vì những giai điệu bài hát của ông
như những lời ru rất gần gũi, quen thuộc với người Nhật.
Năm 1980 ca khúc “Diễm xưa”
và bản dịch Utsukushii Mukashi
được đài truyền hình lớn nhất ở Nhật NHK chọn làm nhạc phẩm chính cho một bộ
phim nội dung trình bày những khác biệt văn hóa giữa một người Nhật có vợ Việt Nam.
Tháng 7/2004 “Diễm xưa” trở thành nhạc phẩm châu Á đầu tiên được Viện đại học
Kansai Gakuin đưa vào chương trình giáo dục của Viện đại học trong bộ môn Văn
hóa và Âm nhạc.
Năm 2004, “Giải thưởng âm nhạc hòa bình thế giới” (WPMA)
được trao cho nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vì lý tưởng hòa bình mà ông đã đấu tranh
không mệt mỏi cho hạnh phúc của nhân loại.
Tên ông được ghi trong bộ bách khoa Le Million của Pháp
(tập 8 trang 122, Genève 1973).
Tại sao âm nhạc của Trịnh Công Sơn
lại có sức sống, sức lan tỏa
vượt thời gian và không gian như vậy?
Viết về nhạc Trịnh Công Sơn,
Văn Cao nhận xét: “Trong âm nhạc của Sơn, ta không thấy dấu vết
của âm nhạc cổ điển theo cấu trúc bác học phương Tây. Sơn viết hồn nhiên như
thể cảm xúc nhạc thơ tự nó trào ra”.
Nhạc sĩ Phạm Duy: “… toàn thể ca khúc Trịnh Công Sơn không cầu kỳ, rắc rối
vì nằm trong một số nhạc điệu đơn giản, rất phù hợp với tiếng thở dài của thời
đại”.
Các nhạc sĩ phần đông cùng
nhận xét: nhạc của Trịnh Công Sơn rất đơn
giản, không có gì chuyên môn, chủ yếu là hai gam La và Mi. Vậy thì, chỉ với
nhạc không, ta sẽ chỉ có một Trịnh Công Sơn nhạc sĩ bình thường, không trở
thành một hiện tượng độc đáo nhất trong lịch sử ca nhạc và cả trong lãnh vực
văn học như hiện nay.
Vậy thì tại sao lại
là nhạc Trịnh Công Sơn?
Một nghịch lý là ở đây: “Nhạc của Trịnh Công Sơn hay là nhờ ở ngôn ngữ Trịnh Công
Sơn. Nếu không thích hát, ta có thể dở bất cứ một bài hát nào của Trịnh Công
Sơn và đọc, y như đọc thơ. Ta sẽ thưởng thức các ca từ đó như bài thơ. Và thế
cũng đủ.”.
Trịnh Công Sơn được xem là phù thủy
ngôn ngữ, tiếng Việt qua thơ ông trở nên mới lạ và độc đáo. Ở đây, chúng
ta lại có một câu hỏi, thơ hay thì không chỉ có Trịnh Công Sơn, trước năm 1975 và
hiện nay chẳng hạn, tại sao chúng không nổi tiếng bằng Trịnh Công Sơn? Điều đó dẫn đến một nghịch
lý thứ hai: thơ Trịnh Công
Sơn hay là vì chúng biến thành âm nhạc, thành nhạc và phổ biến rộng khắp. Chúng ta biết, nhiều bài thơ
hay, trở thành phổ biến và được công chúng đón nhận là nhờ được phổ nhạc, nghĩa
là biến thành âm thanh. Chẳng hạn bài thơ “Đưa em tìm động hoa vàng” của Phạm
Thiên Thư. Bài thơ “Ngậm ngùi” của Huy Cận, mấy ai biết. Vậy mà đến khi Phạm Duy
phổ nhạc hai bài thơ trên trở thành những bài hát nổi tiếng một thời trước
1975. Hay bài thơ “Cuối cùng cho một Tình yêu” của Trịnh Cung ít ai biết, thế
nhưng khi Trịnh Công Sơn phổ nhạc thì được phổ biến rộng rãi.
Ngôn ngữ của Trịnh Công Sơn là những bài thơ. Y như bất
cứ một bài thơ nào khác. Có điều chúng tự biến thành âm thanh cùng lúc sáng
tác. Đó là những “bài thơ âm” (Văn Cao gọi Trịnh Công Sơn là người ca thơ vì
vậy). Chúng có cùng với nhạc. Có thể nói chúng là nhạc. Chúng được sáng tác cho
nhạc, nhưng không phải là những bài thơ phổ nhạc. Trịnh Công Sơn tự nhận xét:
“Ca khúc đối với tôi là một mô hình
gần gũi, thiết thân và hoàn chỉnh. Nó là một cuộc hôn phối kỳ diệu giữa thi ca
và âm nhạc”. Đúng, một cuộc hôn phối giữa
thi ca và âm nhạc thật nhuần nhuyễn, diệu kỳ.
Theo ông Trần Hữu Thục, nó còn là một cuộc hôn phối khác, hôn phối giữa Trịnh
Công Sơn và thời đại của ông. Đó là một giai đoạn bùng vỡ mọi mặt. miền Nam Việt Nam từ
cuối 1963 đến tháng 4/1975 không khi nào yên tĩnh. Bom đạn, biểu tình, đảo
chánh, pháo kích, giới nghiêm, bãi khóa, hội thảo. Các phong trào, đảng phái
mọc lên như nấm. Các xu hướng chính trị, tôn giáo, triết học phát triển rầm rầm
rộ rộ: hiện sinh, cộng sản, Phật giáo, Thiên chúa giáo, tả khuynh, hữu khuynh,
phân tâm, thiền, cách mạng tính dục. Cả một xã hội trần truồng phô bày toang
hoác. Các tệ nạn xã hội được dịp phát triển kinh khiếp: tham nhũng, đĩ điếm, ăn
cắp, giết người… Thời đại tướng
lĩnh sợ sinh viên, bộ trưởng sợ thầy chùa. Một giai đoạn lịch sử tự do bung
phá. Mọi tháp ngà bị đạp vỡ, mọi đường ranh bị băng qua. Tất cả các tiêu chuẩn
chân lý bị xét lại. Tuổi trẻ đứng cheo leo trên đường biên. Đó là thời kỳ của
khai mở và bi kịch. Trịnh Công Sơn đớn đau nhận lãnh và thừa hưởng để biến tất
cả thành nghệ thuật.
Trịnh Công Sơn là một hiện tượng đặc biệt trong nền văn
hóa Việt Nam
thế kỷ XX. Có thể nói: ca từ của Trịnh Công Sơn là một hôn phối giữa nhiều
“nỗi” “niềm” khác nhau: hôn phối giữa thi ca và âm nhạc, hôn phối giữa tác giả
và thời đại của mình. Ông đã nói hộ cho nhân loại nỗi tuyệt vọng nhân sinh, nỗi
phẫn nộ về chiến tranh, niềm ước mơ về hòa bình, nỗi băn khoăn siêu hình, niềm
vui về tình yêu, đoàn tụ và nỗi buồn của thân phận con người.
Suốt đời ông mãi là con dã
tràng xe cát biển Đông. Sinh thời, Trịnh Công Sơn từng hỏi: Ngày sau còn ai nhắc tên mình không? (“Dã
tràng ca”)
Câu hỏi đầy chất tâm linh
của Trịnh Công Sơn mãi mãi là nỗi băn khoăn của nhân loại. Và có lẽ Trịnh Công
Sơn cũng không ngờ, ngày ông mất người đời đã trao cho ông định mệnh ấy: Sự bất
tử.
Ban mai
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét