Tuy nhiên, việc xác lập chủ quyền lãnh thổ trên đất liền hay trên các
vùng biển, đảo đều phải hội đủ các yếu tố theo luật pháp quốc tế của
từng thời điểm lịch sử. Phương thức chiếm hữu và thụ đắc lãnh thổ vì thế
cũng thay đổi theo thời gian.
Bản đồ Việt Nam
do Đỗ Bá - Công Đạo vẽ vào thế kỷ XVII.
Lời chú giải trên bản đồ khu vực phủ Quảng Ngãi ghi rõ
"Giữa biển có một dải cát dài, gọi là Bãi Cát Vàng”...
Lời chú giải trên bản đồ khu vực phủ Quảng Ngãi ghi rõ
"Giữa biển có một dải cát dài, gọi là Bãi Cát Vàng”...
Sau Chiến tranh thế giới thứ 2, Liên Hiệp Quốc được thành lập tiếp theo Hội Quốc Liên. Từ các cuộc chiến tranh xâm lược, Hiến chương Liên Hiệp Quốc đưa ra nguyên tắc (điều 2 khoản 14) có giá trị như một nguyên tắc pháp lý áp dụng cho tất cả các quốc gia. Nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực trên đã được phát triển và tăng cường trong Nghị quyết 2625 năm 1970: "Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một cuộc chiếm đóng quân sự do sử dụng vũ lực trái với các quy định của Hiến chương. Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một sự chiếm hữu của một quốc gia khác sau khi dùng đe dọa hay sử dụng vũ lực. Bất kỳ sự thụ đắc lãnh thổ nào đạt được bằng đe dọa hay sử dụng vũ lực sẽ không được thừa nhận là hợp pháp”. Nghị quyết trên cũng qui định: "Các quốc gia có bổn phận không đe dọa hay sử dụng vũ lực để vi phạm các biên giới quốc tế hiện có của một quốc gia khác hay như biện pháp giải quyết các tranh chấp quốc tế, kể cả các tranh chấp về lãnh thổ và các vấn đề liên quan đến các biên giới của các quốc gia.”.
Năm 1982, Công ước
Liên Hiệp Quốc về Luật Biển ("United Nations Convention on Law of Sea” -
viết tắt là UNCLOS) công bố ngày 10-2-1982 tại Montego Bay ở Jamaica đã
được 159 quốc gia ký nhận. Sau khi có đủ 60 quốc gia phê chuẩn, kể từ
ngày 16-11-1994 UNCLOS hay LOS Convention trở thành luật quốc tế đối với
các quốc gia phê chuẩn và được thi hành, đã xác định về chủ quyền trên
biển của mỗi quốc gia.
Đối chiếu với trường
hợp hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, từ đầu thế kỷ XV
đến cuối thế kỷ XIX, theo tập quán pháp lý phương Tây lúc bấy giờ, sự
xác lập chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo này là một sự thật thể
hiện bằng các hành động cụ thể về sự quản lý, chỉ đạo của các Nhà nước
Việt Nam đương thời một cách nhất quán, liên tục, hoà bình phù hợp với
cơ sở pháp lý quốc tế đương thời. Sau đó, chủ quyền của Việt Nam tiếp
tục được khẳng định dựa trên các cơ sở pháp lý quốc tế có giá trị phổ
biến là Tuyên bố của Viện Pháp luật Quốc tế Lausanne năm 1888, Hiến
chương Liên Hiệp Quốc và Công ước về Luật Biển 1982 mà các thành viên ký
kết (trong đó có cả những nước đang vi phạm chủ quyền của Việt Nam ở
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa) đều phải tôn trọng.
Nhiều tư liệu phương Tây xa xưa còn lưu lại đến nay cho thấy, chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam đã được xác định từ thế kỷ XV đến XIX trên những bản đồ
Nhiều tư liệu cổ
phương Tây còn lưu lại đến nay cho thấy các nhà hàng hải Bồ Đào Nha đã
có những mô tả về quần đảo Hoàng Sa từ thế kỷ thứ XIV. Nhiều nhật ký hải
trình của các nhà thám hiểm Bồ Đào Nha thời đó đã nói về một dải đá
ngầm Pulo Pracela (các bãi ngầm san hô) rất nguy hiểm, trải dài cả vùng
Hoàng Sa và Trường Sa ngày nay, tương tự với những hiểu biết của những
người đi biển Việt Nam cùng thời. Các cuộc khảo sát Biển Đông của các
nhà hàng hải phương Tây sau đó, nhất là của người Hà Lan và Pháp, ngày
càng xác định rõ Pracela hay Paracels (Hoàng Sa) là một quần đảo thuộc
về nước An Nam (cách người phương Tây thời trước gọi Việt Nam ).
Bản đồ bán đảo Đông
Dương của anh em nhà hàng hải Hà Lan Van-Langren (1595) ghi nhận ngoài
khơi Việt Nam có một vùng quần đảo với nhiều bãi cát nông chạy dài xuống
hướng tây nam gọi tên là Paracels cùng với rất nhiều chi tiết địa hình
của miền Trung Việt Nam ngày nay. Chẳng hạn như đối diện với quần đảo
Paracels trên đất liền có bờ biển ghi là Costa da Pracels (bờ Pracels) ở
ngoài biển còn có Pulo Canton (Cù Lao Ré) thuộc địa phận Quảng Ngãi.
Riêng Alexandre de Rhodes 1650, Công ty Đông Ấn La Haye năm 1658 và Taberd năm 1838 đã vẽ riêng bản đồ Việt Nam.
Bản đồ do nhà xuất bản Covens and Mortier tại Amsterdam vào năm 1760
có ghi chú quần đảo Paracel bên cạnh bờ biển xứ Đàng Trong.
Trong số hàng trăm bản đồ do Phương Tây thực hiện, hầu hết đều ghi rõ đất nước Việt Nam với các hải đảo Hoàng Sa và Trường Sa, được gọi tên chung là Paracels hay Pracel. Bờ biển Prasel là ở Trung Bộ Việt Nam, chứ không hề ghi ở Nam Trung Hoa hay Phi Luật Tân, Indonesia hoặc Mã Lai. Như vậy, thật hiển nhiên, khắp thế giới đều công nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.
Thư tịch cổ Việt Nam cũng ghi nhận người Bồ Đào Nha và Hà Lan đã từng nhiều lần tiếp xúc với các chúa Nguyễn xứ Đàng Trong để buôn bán. Nhiều thuyền buôn của phương Tây gặp nạn ở Hoàng Sa đều cập vào bờ biển Việt Nam để xin giúp đỡ và cũng nhiều lần họ được các chúa Nguyễn cử người ra cứu hộ, cấp cho tiền bạc, lương thực và thuyền để trở về nguyên quán.
Chẳng hạn sau vụ đắm
tàu Grootenbroeck của Hà Lan năm 1634 trong vùng đảo Hoàng Sa, viên
thuyền trưởng đã tìm đến Hội An và Thuận Hoá để cầu cứu các chúa Nguyễn.
Như vậy, từ rất lâu đời (muộn nhất vào thế kỷ XV) các nhà hàng hải
phương Tây đã mặc nhiên xác định vùng quần đảo Hoàng Sa trên Biển Đông
thuộc quyền quản lý của các chúa Nguyễn xứ Đàng Trong.
Bước sang thế kỷ
XVII-XVIII, tàu thuyền của người phương Tây đi qua Biển Đông ngày càng
tấp nập. Người Pháp thông qua sự cộng tác với Nguyễn Ánh về quân sự đã
bắt đầu quan tâm tới Biển Đông nhiều hơn và kế thừa những hiểu biết của
các nhà hàng hải Bồ Đào Nha, Hà Lan... Từ đó, người phương Tây nhận thức
rất rõ chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam.
Năm 1701, nhật ký hải trình tàu Amphitrite xác nhận một thực tế hiển
nhiên rằng "Paracels là một quần đảo thuộc về Vương quốc An Nam. Đó là
một bãi đá ngầm thật khủng khiếp có đến hàng trăm dặm, rất nhiều lần đã
xảy ra các nạn đắm tàu ở đó”.
Đương thời Lê Quý Đôn
đã viết về Hoàng Sa và Trường Sa
Năm Cảnh Hưng thứ 36 (1775), Lê Quý Đôn được chúa Trịnh ở Đàng Ngoài cử vào Phú Xuân để lo sắp đặt kế hoạch bình định hai trấn Thuận Hoá và Quảng Nam của chúa Nguyễn mới được quân chúa Trịnh đánh chiếm từ năm 1774. Trong khi được cử giữ chức vụ Hiệp trấn tham tán quân cơ ở Thuận Hóa, ngoài việc phải lo tổ chức lại chính quyền, ổn định cuộc sống của dân, năm 1776, Lê Quý Đôn đã tranh thủ thời gian "đi dạo núi sông, hỏi di tích, xem xét lệ cũ, tìm kiếm nhân tài, tùy bút chép ra thành quyển gọi tên là Phủ biên tạp lục”.
Sách "Phủ biên tạp lục” được soạn xong
ngay trong năm đó - chỉ trong 6 tháng Lê Quý Đôn làm quan ở Thuận Hóa -
nhưng chưa được khắc in, bản thảo chép tay của tác giả cũng không còn và
các bản sao sớm nhất còn lại đến ngày nay đều là bản sao chép tay ở thế
kỷ XIX. BienDong Net giới thiệu nội dung những ghi chép này của ông qua
bài viết của Ngô Quang Chính trên báo quốc nội Đại Đoàn kết.
"Phủ biên tạp lục”, sau khi được giám
định, phiên dịch và hiệu đính rất công phu bởi Viện Sử học, năm 1977
được Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản thành sách và được đưa vào
làm tập I của bộ "Lê Quý Đôn toàn tập”.
"Phủ biên tạp lục” gồm 6 quyển, được đánh giá là tài liệu cổ mô tả kỹ càng nhất về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Hai đoạn chép về các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đều nằm trong Quyển II (Hình thế núi sông, thành lũy, trị sở, đường sá, bến đò, nhà trạm hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam) trang 116 và trang 119-120. Chung quy lại, hai đoạn này viết về ba vấn đề chính là: Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; đặc điểm, hoạt động của đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải; khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
1. Về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa :
Trường Sa ở phía ngoài
Cù Lao Ré (tức đảo Lý Sơn; xưa thuộc xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, phủ
Quảng Ngãi; nay thuộc huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi), gần xứ Bắc
Hải, cách đảo Lý Sơn khoảng 3 ngày đêm đi thuyền câu, có nhiều sản vật
tự nhiên và hàng hóa của các con tàu bị đắm: "Phủ Quảng Ngãi, ở ngoài
cửa biển xã An Vĩnh huyện Bình Sơn có núi gọi là Cù Lao Ré, rộng hơn 30
dặm...; phía ngoài nữa lại có đảo Đại Trường Sa, trước kia có nhiều hải
vật và hóa vật của tàu, lập đội Hoàng Sa để lấy, 3 ngày 3 đêm thì mới
đến, là chỗ gần xứ Bắc Hải”.
Hoàng Sa thì ở ngoài
biển về phía đông bắc xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi. Về địa
hình thì "có nhiều cù lao, các núi linh tinh hơn 130 ngọn, cách nhau
bằng biển, từ hòn này sang hòn kia hoặc đi một ngày hoặc vài canh thì
đến. Trên núi có chỗ có suối nước ngọt. Trong đảo có bãi cát vàng, ước
hơn 30 dặm, bằng phẳng, rộng lớn, nước trong suốt đáy”. Về sinh vật thì
có yến sào, chim, ốc vân, ốc xà cừ, ốc hương, đồi mồi, hải ba, hải
sâm... Trên đảo còn có hàng hóa của các con tàu bị đắm - "hóa vật của
tàu, như là gươm, ngựa, hoa bạc, tiền bạc, hòn bạc, đồ đồng, khối thiếc,
khối chì, súng, ngà voi, đồ sứ, đồ chiên”.
2. Đặc điểm, hoạt động
của đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải :
Để khai thác các nguồn
lợi kinh tế và bảo vệ chủ quyền trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa, các chúa Nguyễn và sau này là các vua Tây Sơn, vua Nguyễn đã cho lập
các đội Hoàng Sa và Bắc Hải.
Nhiệm vụ của đội Hoàng
Sa và Bắc Hải là tìm nhặt hàng hóa của các con tàu bị đắm dạt vào các
đảo (gươm, súng, vàng bạc, đồ đồng, thiếc, chì...) và đánh bắt hải sản
(ốc, hải sâm, vỏ đồi mồi, vỏ hải ba...).
Về mặt tổ chức, phiên
chế đội ngũ, đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải là một tổ chức dân binh vừa
mang tính dân sự vừa mang tính quân sự, vừa mang tính chất tư nhân vừa
mang tính nhà nước, vừa có chức năng kinh tế, vừa có chức năng quản lý
biển đảo. Thành viên đội Hoàng Sa là những dân địa phương được tổ chức
theo hình thức quân sự. Đứng đầu mỗi đội là một cai đội (thường là vị
quan lớn như cai đội Thuyên Đức Hầu - một người được phong tước "hầu”),
những thành viên trong đội được gọi là "quân nhân”: "năm Kiền Long thứ
18 (1753) có 10 tên quân nhân xã An Vĩnh đội Cát Vàng huyện Chương Nghĩa
phủ Quảng Ngãi nước An Nam”. Cai đội Hoàng Sa kiêm quản đội Bắc Hải.
Những quân nhân Hoàng Sa, Bắc Hải không được trả lương hàng tháng như
chính binh (tức lính chuyên nghiệp), chỉ được "miễn cho tiền sưu cùng
các tiền tuần đò”. Ngoài việc được miễn sưu thuế, về mặt quyền lợi, họ
còn được hưởng phần dư - phần còn lại ngoài số sản vật lượm được phải
nộp cho Nhà nước theo quy định: "đến thành Phú Xuân để nộp, cân và định
hạng xong, mới cho đem bán riêng các thứ ốc vân, hải ba, hải sâm”.
Biên chế của đội Hoàng
Sa: 70 suất, nguồn tuyển: người xã An Vĩnh trên đảo Cù Lao Ré; biên chế
của đội Bắc Hải: "không định bao nhiêu suất”, nguồn tuyển: hoặc người
thôn Tứ Chính ở Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương.
Lịch hoạt động trong
năm: tháng 2 lĩnh giấy sai đi, mất 3 ngày 3 đêm thì đến nơi, ở lại trên
đảo 6 tháng, tháng 8 thì về, vào thành Phú Xuân để nộp, rồi lĩnh bằng
trở về. Hoạt động của đội được chính quyền cho phép và giám sát chặt
chẽ: khi đi lĩnh giấy, khi về lĩnh bằng.
Địa bàn hoạt động: các
cù lao, đảo trên Biển Đông. Vì địa bàn biển đảo quá rộng nên đội Bắc
Hải được lập thêm để phụ trách vùng biển đảo phía Nam, từ Trường Sa đến
Hà Tiên: xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên.
Phương tiện và trang bị: đi bằng thuyền câu nhỏ (5 chiếc), mang đủ lương ăn 6 tháng, bắt thêm cá, chim để ăn. Thu hoạch thất thường:
"Lượm được nhiều ít không nhất định, cũng có khi về người không”. Phần
hải vật thường ổn định, còn hóa vật thì nhiều ít tùy năm. "Chẳng qua là
lấy các thứ hải vật, còn vàng bạc của quý ít khi lấy được”. Với tư cách
quan Hiệp trấn, Lê Quý Đôn đã trực tiếp tìm hiểu: "Tôi đã xem sổ của cai
đội cũ là Thuyên Đức Hầu biên rằng: năm Nhâm Ngọ lượm được 30 hốt bạc;
năm Giáp Thân thu hồi được 5100 cân thiếc; năm Ất Dậu được 126 hốt bạc;
từ năm Kỷ Sửu đến năm Quý Tỵ, 5 năm ấy, mỗi năm chỉ được mấy tấm đồi
mồi, hải ba. Cũng có năm được thiếc khối, bát sứ và hai khẩu súng đồng
mà thôi”.
3. Việt Nam đã thực thi chủ quyền của mình
trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa :
"Hoàng Sa chính gần
phủ Liêm Châu, đảo Hải Nam, người đi thuyền có lúc gặp thuyền đánh cá
Bắc quốc, hỏi nhau ở trong biển. Tôi đã từng thấy một đạo công văn của
quan chính đường huyện Văn Xương Quỳnh Châu gửi cho Thuận Hóa nói rằng:
năm Kiền Long thứ 18 (1753) có 10 tên quân nhân xã An Vĩnh đội Cát Liềm
(Vàng?) huyện Chương Nghĩa, phủ Quảng Ngãi, nước An Nam ngày tháng 7 đến
Vạn Lý Trường Sa tìm kiếm các thứ, có 8 tên lên bờ tìm kiếm, chỉ để 2
tên giữ thuyền, bị gió đứt dây thuyền, giạt vào Thanh Lan cảng, quan ở
đấy xét thực, đưa trả về nguyên quán. Nguyễn Phúc Chu sai cai bạ Thuận
Hóa là Thức Lượng Hầu làm thư trả lời”. Điều này chứng tỏ ngày xưa Việt
Nam và Trung Quốc khá thân thiện, ngư dân thì gặp nhau, "hỏi nhau ở
trong biển”, quan lại thì gửi công văn trao đổi qua lại. Và từ xưa chính
quyền Trung Quốc đã biết đến hoạt động của các đội khai thác và thực
thi chủ quyền biển đảo của Việt Nam, trong đó có đội Hoàng Sa - Cát
Vàng, vẫn luôn tôn trọng quyền thực thi chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng
Sa và Trường Sa. Chính quyền phong kiến Trung Quốc đã không hề có phản
ứng nào về những hoạt động của đội Hoàng Sa mà còn giúp đỡ những người
lính Hoàng Sa hồi hương "xét thực, đưa trả về nguyên quán”.
Suốt trong ba
thế kỷ từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XIX, một tổ chức "ngư binh” Việt
Nam- đội Hoàng Sa đã hoạt động tại Biển Đông với chức năng quan trọng là
khai thác các nguồn lợi kinh tế và bảo vệ chủ quyền trên các quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa.
Cụ thể, nhiệm vụ của đội Hoàng Sa là thu
lượm hàng hóa của các con tàu bị đắm (gươm, súng, vàng bạc, đồ đồng,
thiếc, chì...) và các hải sản quý (ốc, hải sâm, vỏ đồi mồi, vỏ hải
ba...); kiêm quản, trông coi đội khác cùng làm nhiệm vụ song ở địa bàn
khác (như đội Bắc Hải ở phía Nam), đồng thời kiểm soát, bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.
Như thế, nhiệm vụ của
đội Hoàng Sa rất nặng nề, không thuần túy về kinh tế, khai thác tài
nguyên mà còn làm công tác xem xét, đo đạc thủy trình vùng quần đảo
Hoàng Sa, du thám, trình báo về các bọn thổ phỉ ngoài biển. Đây chính là
nội dung hoạt động thực thi quyền quản lý Biển Đông của chính quyền
chúa Nguyễn và buổi đầu nhà Nguyễn thời ấy.
Vì có chức năng đặc
biệt quan trọng như vậy nên đội Hoàng Sa được đặt dưới sự kiểm tra, giám
sát của Bộ Công, thậm chí nhiều khi đích thân Nhà vua đã quyết định một
số những công việc đặc biệt hệ trọng của đội.
Người trực tiếp chỉ huy đội là một cai đội. Cai đội là vị quan lớn, thường được phong tước "hầu”, như: Thuyên Đức Hầu, đã được Lê Quý Đôn tra cứu sổ sách suốt từ 1702 (Nhâm Ngọ) đến 1713 (Quý Tỵ); Hội Đức Hầu, trong Chỉ thị của Thái phó Tổng lý Quân binh dân chư vụ Thượng tướng công, được lưu giữ tại nhà thờ họ Võ, phường An Vĩnh (nay là thôn Tây, xã An Vĩnh, huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi). Hoặc như Phú Nhuận Hầu, đã kiêm luôn "Khâm sai cai thủ” cửa biển Sa Kỳ, kiêm chức "Cai cơ thủ ngự”, kiêm quản đội Hoàng Sa, trong tờ trình ngày 1 tháng 10 năm Gia Long thứ 2 (1803) cũng được lưu giữ tại nhà thờ họ Võ.
Sau đó, vì chính quyền
nhà Nguyễn dần dần tìm ra các đảo san hô hết sức rộng ở Biển Đông, đội
Hoàng Sa không thể bao quát hết được, các chúa Nguyễn đã cho thành lập
các đội Bắc Hải, Quế Hương, Đại Mạo hải ba và Quế Hương hàm, cũng có
chức năng và nhiệm vụ như đội Hoàng Sa. Song các chúa Nguyễn vẫn để đội
Hoàng Sa kiêm quản, chịu trách nhiệm chung để có một đầu mối mà dễ dàng
nắm tình hình ở Biển Đông.
Địa bàn hoạt động chủ
yếu của đội Hoàng Sa được quy gọn lại vùng biển và hải đảo ngang với khu
vực Lý Sơn và ngược lên phía Bắc, trong đó vẫn lấy quần đảo Hoàng Sa là
trung tâm. Đội Bắc Hải phụ trách vùng biển đảo phía Nam, từ Trường Sa
đến Hà Tiên: xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên.
Về mặt tổ chức, phiên
chế đội ngũ, đội Hoàng Sa và các đội khác là những tổ chức dân binh vừa
mang tính dân sự vừa mang tính quân sự, vừa mang tính chất tư nhân vừa
mang tính Nhà nước, vừa có chức năng kinh tế, vừa có chức năng quản lý
biển đảo.
Họ xuất phát là ngư
dân, sau đó tự nguyện gia nhập đội ngũ làm nhiệm vụ cho Nhà nước theo
kiểu lính nghĩa vụ nên được gọi là những "quân nhân” hay "ngư binh”.
Trong Phủ biên tạp
lục, Lê Quý Đôn có chép: "...năm Kiền Long thứ 18 (1753) có 10 tên quân
nhân xã An Vĩnh, đội Cát Vàng, huyện Chương Nghĩa, phủ Quảng Ngãi nước
An Nam...”. Vì thế, nhìn chung những người lính Hoàng Sa đều có ý thức
kỷ luật cao. Họ là một tổ chức chặt chẽ và hoạt động có hiệu quả, liên
tục.
Do hoàn cảnh địa lý tự
nhiên, từ vị trí, địa thế cũng như nhân văn của vùng cửa biển Sa Kỳ -
Cù Lao Ré khiến dân cư ở đây giỏi đi biển, đánh bắt cá không chỉ gần bờ
mà còn xa bờ, thời nay gọi là "viễn dương”, "vươn khơi”.
Họ thường đi tìm những hải sản quý như hải sâm, ốc tai tượng... ngay ở vùng kế cận Cù Lao Ré. Hiển nhiên những nơi
như Hoàng Sa đầy ắp những hải sản tất sẽ có sức hút những cư dân trên đi
tới. Đó cũng là lý do đầu tiên khiến Cù Lao Ré - cửa biển Sa Kỳ là cái
nôi ra đời của đội Hoàng Sa và các đội khác.
Những "quân nhân”
Hoàng Sa, Bắc Hải... không được trả lương hàng tháng như "chính binh”
(tức lính "chuyên nghiệp”), chỉ được "miễn cho tiền sưu cùng các tiền
tuần đò”.
Ngoài việc được miễn
sưu thuế, về mặt quyền lợi, họ còn được hưởng phần dư - phần còn lại
ngoài số sản vật lượm được phải nộp cho Nhà nước theo quy định: "đến
thành Phú Xuân để nộp, cân và định hạng xong, mới cho đem bán riêng các
thứ ốc vân, hải ba, hải sâm” (Phủ biên tạp lục). Người hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ thì được khen thưởng xứng đáng, còn người không hoàn thành
nhiệm vụ, "ngạo mạn càn bậy không đến, lại gian dối lấy bớt các vật quý,
hoặc sinh sự với dân làm muối, làm cá đều phải trị tội”.
Tóm lại, đội Hoàng Sa
và các đội "ngư binh” khác, với chức năng chủ yếu là bảo vệ và khai thác
các vùng quần đảo xa giữa Biển Đông, cũng có lúc thiên về công việc
khai thác, cũng có lúc thiên về công việc bảo vệ, nhưng dù là thiên về
chức năng nào thì cũng không thể thay thế được các đội Thuỷ quân.
Vì thế trong lịch sử
chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa, có những lúc hoạt động
của đội Hoàng Sa rất nổi bật, nhưng cũng có những lúc bị lu mờ, thậm chí
có khi bị ghép chung vào công việc của đội Thuỷ quân. Lịch sử ghi lại
rằng có triều đình đã từng quyết định bãi bỏ đội Hoàng Sa và chuyển công
việc của đội Hoàng Sa cho đội Thuỷ quân, nhưng ngay sau đó họ lại phải
tính chuyện tái lập trở lại. Hay sau khi giành được chính quyền, các
vương triều đã tái lập các đội Hoàng Sa, Bắc Hải đã tạm ngừng hoạt động
do binh lửa chiến tranh. Bởi vì, các đội "ngư binh” này được tổ chức gọn
nhẹ, đơn giản hơn Thủy quân. Chưa chắc Thủy quân đã thông thạo biển đảo
bằng những ngư dân phường An Vĩnh. Họ lại phải tự lo phương tiện (như
tiểu điếu thuyền, thuyền câu), lương thực và các vật dụng cần thiết cho
những chuyến đi. Lấy kinh phí của tư nhân nhưng đi làm nhiệm vụ của Nhà
nước. Vì vậy, chiếc thuyền đi làm nhiệm vụ được "cắm biển hiệu thủy
quân”.
Ngoài việc tự nhận lấy
trách nhiệm "luôn du thám ngoài biển, nếu thấy bọn ác phỉ trên tàu
ngoài biển thì trình báo, những việc đó coi là bổn phận giữ gìn ngoài
biển”, họ còn làm các công việc phục vụ cho chức năng quản lý nhà nước
trên các quần đảo của Tổ quốc như đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ về Hoàng
Sa và Trường Sa, cắm cột mốc, dựng bia chủ quyền, tổ chức thu thuế và
cứu hộ tàu bị nạn, xây dựng chùa miếu và trồng cây để cho người qua lại
dễ nhận biết...
Họ "sẵn lòng ứng chiến với kẻ xâm phạm” "nếu như có truyền báo xảy chinh chiến”. Họ thực sự là những "hùng binh” trên biển.
Sau này, từ thời vua
Minh Mạng trở đi, lực lượng Thủy quân làm nhiệm vụ thực thi chủ quyền
được phiên chế như một "lực lượng đặc nhiệm” gồm kinh phái, tỉnh phái và
dân binh địa phương mà chủ yếu là dân binh đội Hoàng Sa. Lúc này, chức
năng bảo vệ biển đảo đã chuyển hẳn cho các đội Thủy quân, nhưng những
đội Hoàng Sa và Bắc Hải vẫn tiếp tục đi ra Hoàng Sa, Trường Sa thu lượm
hoá vật, hải sản dâng nộp cho triều đình Huế - nghĩa là vẫn thực hiện
một chức năng của đội Hoàng Sa, Bắc Hải xưa.
Vì tính chất tổ chức
"bán quân sự”, "bán tư nhân”, "bán kinh tế” như vậy nên các đội Hoàng
Sa, Bắc Hải... được coi là một tổ chức độc đáo của các Nhà nước Việt Nam
thế kỷ XVII, XVIII, XIX trong chủ trương khẳng định chủ quyền của mình ở
Hoàng Sa và Trường Sa.
Bộ sách đồ sộ và có nhiều thông tin hơn cả về Hoàng Sa, Trường Sa là bộ Đại Nam thực lục Chính biên. Trong hai thập kỷ đầu thế kỷ XIX, vua Gia Long đã nhiều lần quan tâm đến việc kiểm tra, kiểm soát Hoàng Sa được sách ghi lại như: “sai mộ dân ngoại tịch lập làm đôi Hoàng Sa” năm 1803; “sai đội Hoàng Sa là bọn Phạm Quang Ảnh ra đảo Hoàng Sa thăm dò đường biển” năm 1815 và năm 1816; nhận địa đồ đảo Hoàng Sa từ thuyền Mã Cao năm 1817…
Bộ sách đồ sộ và có nhiều thông tin hơn cả về Hoàng Sa, Trường Sa là bộ Đại Nam thực lục Chính biên. Trong hai thập kỷ đầu thế kỷ XIX, vua Gia Long đã nhiều lần quan tâm đến việc kiểm tra, kiểm soát Hoàng Sa được sách ghi lại như: “sai mộ dân ngoại tịch lập làm đôi Hoàng Sa” năm 1803; “sai đội Hoàng Sa là bọn Phạm Quang Ảnh ra đảo Hoàng Sa thăm dò đường biển” năm 1815 và năm 1816; nhận địa đồ đảo Hoàng Sa từ thuyền Mã Cao năm 1817…
Nhưng hoạt động thực
thi chủ quyền ở Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam đã phát triển lên trình
độ cao hơn dưới thời trị vì của vua Minh Mệnh.
Năm 1833, ông lập kế
hoạch phái người ra Hoàng Sa dựng miếu, lập bia và trồng cây. Các năm
1834, 1835, ông cho người ra dựng miếu, đền thờ thần, lập bia đá và xây
bình phong ở khu vực toà miếu cổ. Năm 1836, ông quyết định hàng năm phái
người ra Hoàng Sa xem xét, đo vẽ tỉ mỉ và lập thành bản đồ các đảo,
hòn, bãi cát.
Khi ra đo đạc ngoài
Hoàng Sa đội thuỷ quân Phạm Hữu Nhật đã mang theo 10 bài gỗ, trên mặt
khắc dòng chữ “Minh Mệnh thứ 17, năm Bính Thân, thuỷ quân chánh đội
trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật, vâng mệnh đi Hoàng Sa trông nom đo đạc
đến đây lưu dấu để ghi nhớ”. Liên tục từ năm 1834 đến năm 1839 vua Minh
Mệnh thưởng công cho những người đi vẽ bản đồ ở ngoài đảo Hoàng Sa về.
Đối với những người không may gặp gió bão ngoài biển mà bảo toàn tính
mạng trở về cũng có thưởng; còn những người không hoàn thành nhiệm vụ
tuần phòng ngoài biển thì bị phạt nặng…
Bên cạnh Đại Nam thực
lục Chính biên, dưới thời Minh Mệnh, Quốc sử quán còn được giao nhiệm vụ
biên soan bộ Minh Mệnh chính yếu, trong đó quyển 25 có chép nhiều vụ
tầu đắm ở ngoài Biển Đông, trôi dạt vào bờ đã được cứu giúp chu đáo.
Chẳng hạn vào năm 1836 thuyền buôn nước Anh gặp gió bão ở Hoàng Sa, tạm
ghé vào hải phận tỉnh Bình Định, đã được nhà vua “sai quan tỉnh tuyên
cáo chỉ dụ của triều đình cho họ nghe, đồng thời mở cuộc phát chẩn…”.
Điều này không chỉ nói
lên lòng nhân đạo cao cả của người Việt, mà quan trọng hơn chính là
nghĩa vụ, trách nhiệm cứu hộ trên biển của Nhà nước và cư dân Việt Nam
với tư cách là chủ nhân của vùng biển đảo này.
Khâm định Đại Nam hội
điển sự lệ là bộ sách do triều thần nhà Nguyễn vâng mệnh vua ghi chép
những việc làm của triều đình thuộc lục bộ về điển chương, pháp luật….
được hoàn thành trong khoảng thời gian từ năm 1843 đến năm 1851. Trong
sách có đoạn chép về việc lập miếu, dựng bia, trồng cây ở Hoàng Sa và
khảo sát, đo vẽ bản đồ toàn bộ khu vực, về cơ bản không khác so với Đại
Nam thực lục Chính biên.
Quốc triều chính biên
toát yếu là bộ sử trích các phần quan yếu của Đại Nam thực lục Chính
biên, trong đó quyển III có các đoạn chép về việc xây miếu và dựng bia,
đo vẽ bản đồ và việc cứu hộ tầu Anh bị mắc cạn ghé vào bãi biển Bình
Định.
Lịch triều hiến chương
loại chí của Phan Huy Chú là bộ bách khoa thư lớn nhất của thế kỷ XIX,
được hoàn thành vào năm 1821 có phần Dư địa chí chép về bãi Hoàng Sa và
đội Hoàng Sa cũng giống như Phủ biên tạp lục.
Việt sử cương giám
khảo lược là bộ sách địa lý lịch sử của Nguyễn Thông chép về Vạn Lý
Trường Sa ngoài những đặc điểm địa lý, tự nhiên và dấu tích của người
Việt Nam trên đảo Hoàng Sa, ông còn nói khá cụ thể về đội Hoàng Sa như
việc tuyển đinh tráng các xã An Vĩnh, An Hải, thời gian tồn tại của đội
Hoàng Sa…
Đại Nam nhất thống chí
do Quốc sử quán thời Tự Đức biên soạn từ năm 1865 đến năm 1882. Hoàng
Sa, Trường Sa được giới thiệu trong quyển 8 (tỉnh Quảng Ngãi) phỏng theo
Phủ biên tạp lục và những tư liệu tập hợp được trong Đại Nam thực lục.
Riêng đoạn cuối sách cung cấp thêm: “Năm Minh Mệnh thứ 16, sai thuyền
công chở gạch đá đến đây xây đền, dựng bia đá ở phía tả đền để ghi dấu
và tra hột các thứ cây ở ba mặt tả hữu và sau. Binh phu đắp nền miếu đào
được lá đồng và gang sắt có đến hơn 2000 cân”.
Nhiều công trình
chuyên khảo hay những ghi chép khách quan của các quan chức, học giả
đương thời khác cũng cung cấp thêm những thông tin có giá trị.
Sử học bị khảo của
Đặng Xuân Bảng cũng chép “đảo Hoàng Sa (ở giữa bể, thuộc huyện Bình Sơn
(Quảng Ngãi), dài rộng vài nghìn dặm).”
Bài thơ Vọng kiến Vạn
Lý Trường Sa của Lý Văn Phức có một đoạn chú dài viết khá cụ thể về khu
vực biển đảo mà chính tác giả suýt mắc nạn.
Theo nguồn tài liệu
này thì ngay từ đầu thế kỷ XIX, nhà Nguyễn đã từng thuê các thuỷ thủ dày
dạn kinh nghiệm và các phương tiện kỹ thuật hiện đại của phương Tây
trực tiếp dẫn dắt một số con thuyền vượt Biển Đông. Điều này cũng góp
phần giải thích bản đồ khu vực biển đảo của Việt Nam tuy vẫn giữ phong
cách vẽ truyền thống, nhưng đã sớm cập nhật những thông tin mới và độ
chính xác cao của bản đồ hằng hải các nước phương Tây đương đại.
Cũng thuộc nguồn tài
liệu thư tịch và có giá trị cao để khẳng định quá trình các Nhà nước
Việt Nam dưới thời Nguyễn thực thi chủ quyền của mình ở Hoàng Sa và
Trường Sa là các Châu bản triều Nguyễn. Qua nghiên cứu khảo sát 144 tập
của hai triều Minh Mệnh và Thiệu Trị, chúng tôi tìm ra được một số tư
liệu là bằng chứng rõ ràng về quá trình thực thi chủ quyền của các nhà
nước phong kiến Việt Nam ở hai quần đảo này như bản dụ của vua Minh Mệnh
(13/7/1835 và 13/7/1837) về các đoàn đi công vụ ở Hoàng Sa; các bản tấu
của Thủ ngự Đà Nẵng về việc thuyền của Pháp mắc cạn ở Hoàng Sa
(21/6/1830); các bản tấu của Bộ Công về việc phạt những người đi Hoàng
Sa không lập xong bản đồ (13/7/1837), về việc phái đoàn công vụ lên
đường ra Hoàng Sa nhưng do gặp gió lớn mà không xuất phát được… Đặc biệt
có tờ tấu của Bộ Công (21/6 /1838) cho biết đoàn khảo sát Hoàng sa trở
về báo cáo đã đến được 25 đảo (trong 3 sở), còn 1 sở hơi xa lại gặp gió
lớn nên chưa tới được…
Dưới thời Nguyễn bên
cạnh việc triển khai đo vẽ thực tế ở Hoàng Sa, Trường Sa là việc nhà
nước cho hoàn thành nhiều bộ bản đồ quan trọng, trong đó tiêu biểu nhất
là Đại Nam nhất thống toàn đồ hoàn thành trong khoảng từ năm 1838 đến
năm 1840 dưới thời vua Minh Mệnh. Quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa trong bản
đồ được vẽ chung thành một cụm hình lưỡi dao kéo dài gồm khoảng ba chục
đảo lớn, trong đó Hoàng Sa ở phía cực bắc được nối liền với Vạn Lý
Trường Sa (tức Trường Sa) ở phía nam trong một chuỗi các đảo chưa có dấu
hiệu phân tách. Thật ra vào năm 1830 cũng đã xuất hiện tấm Bản đồ vẽ
theo phong cách này, nhưng đang còn ở dạng bản thảo và sau này thời
Thiệu Trị có Đại Nam toàn đồ, dưới thời Tự Đức có Đại Nam nhất thống
toàn đồ (Nam Bắc kỳ hội đồ) là sự tiếp nối của phong cách vẽ bản đồ hiện
đại.
Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được thể hiện trong
Đại Nam nhất thống toàn đồ năm 1838
Đại Nam nhất thống toàn đồ năm 1838
Xuất hiện trước và sau Đại Nam nhất thống toàn đồ có khá nhiều bản đồ
khác vẽ Hoàng Sa, Trường Sa vẫn theo phương pháp tryền thống như Nam
Việt bản đồ, Thiên tải nhàn đàm, An Nam dư địa chí, Khải đồng thuyết
ước, Nam Việt địa dư trích lục, Nam Việt địa đồ cựu lục… Các bản đồ này
tuy không cung cấp thông tin mới, nhưng lại xác nhận một thực tế là suốt
trong thế kỷ XIX, Hoàng Sa, Trường Sa đã được đưa vào sách giáo khoa
dạy cho học sinh hay dùng làm sách phổ biến kiến thức để mọi người dân
Việt Nam ghi nhớ phần lãnh thổ không thể tách rời của nước Việt Nam
thống nhất.
Ngay từ khi mới bắt
đầu thiết lập Vương triều, Nguyễn Ánh tiếp tục công cuộc thám sát và
phòng thủ biển nhằm củng cố chính quyền. Một người Pháp trở thành một
đại thần trong triều là Jean Baptiste Chaigneau (1769-1825) trong khi
làm quan ở Huế xác nhận: “Xứ Đàng Trong mà Quốc vương ngày nay mang danh
hiệu Hoàng đế bao gồm xứ Nam Hà theo đúng nghĩa của nó, xứ Bắc Hà, một
phần vương quốc của Cao Miên, một vài đảo có người ở không xa bờ biển và
quần đảo Hoàng Sa, gồm có những đảo nhỏ, bãi đá ngầm và mỏm đá không
người ở. Chỉ đến năm 1816 thì nhà vua hiện nay mới chiếm hữu được quần
đảo này”.
Các tác giả phương Tây
lúc đó, trong các tác phẩm của mình, cũng đều công nhận chủ quyền pháp
lý của các vua nhà Nguyễn đối với quần đảo Hoàng Sa.
Giám mục Jean Louis
Taberd người Pháp, người nhiều năm truyền giáo ở Đàng Trong cho rằng:
“Quần đảo Pracel… Vào năm 1816, nhà vua đã tới long trọng cắm lá cờ của
mình và đã chính thức giữ chủ quyền ở các bãi đá này, mà chắc là sẽ
không có một ai sẽ tìm cách tranh giành với ông ta”. Ông còn cho xuất
bản cuốn Từ điển La Tinh An Nam và kèm theo tấm bản đồ An Nam đại quốc
hoạ đồ, trong đó ở khoảng vĩ tuyến 170 bắc và kinh tuyến 1100 đông, bản
đồ có vẽ một cụm các đảo nhỏ với dòng chữ ghi chú: Paracel Seu Cát Vàng.
Tiến sĩ Gutzlaff, hội
viên của Hội địa lý Hoàng gia Luân Đôn, biên soạn cuốn sách Geography of
the Cochinchinese Empire cho biết: “Chính phủ An Nam nhận thấy lợi ích
có thể đem lại được nếu như dựng lên một ngạch quan thuế và đã duy trì
những thuyền đánh thuế và một đội quân nhỏ đồn trú ở tại chỗ để thu thuế
đối với tất cả những ai đến đó, và để bảo vệ những dân chài của nước
họ”.
Năm 1850, M. A Dubois
de Jancigny, cựu đại uý, phái viên của Chính phủ Pháp ở Trung Quốc và
Đông Dương đã viết sách nói rõ: “Chúng tôi chỉ muốn nhận xét rằng đã từ
34 năm nay, (tức là từ 1816 đến 1850), quần đảo Paracels (mà những người
An Nam gọi là Cát Vàng), thật là một chốn mê cung chằng chịt những hòn
đảo nhỏ, đá ngầm và bãi cát thật sự đã làm những người đi biển kinh hãi
và chỉ có thể kể đến trong số những địa điểm hoang vu cằn cỗi nhất của
địa cầu, quần đảo do đã bị các người xứ Đàng Trong chiếm giữ.
Chúng tôi không rõ họ
đã có đặt một cơ sở nào không (có thể với mục đích là bảo vệ công việc
đánh cá), nhưng chắc chắn rằng nhà vua Gia Long đã chủ tâm đính thêm đoá
hoa độc nhất vô nhị đó vào chiếc vương miện của ông, bởi vì ông đã xét
thấy cần thiết phải đi tới việc đích thân chiếm giữ lấy quần đảo đó, và
chính vì thế mà năm 1816 ông đã long trọng kéo lá cờ xứ Đàng Trong lên
mảnh đất đó”.
Trong những thập kỷ
cuối thế kỷ XIX, khi Pháp tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam,
triều đình Tự Đức không còn đủ sức chống lại đã lần lượt để mất chủ
quyền về tay Thực dân Pháp, trong đó có cả chủ quyền các vùng biển đảo.
Tuy nhiên vùng đất máu thịt của tổ tông vẫn là niềm thôi thúc các thế hệ
con dân đất Việt đấu tranh đến cùng để giành lại chủ quyền bằng mọi
giá.
Tư liệu về nguồn gốc,
chức năng và hoạt động của các đội Hoàng Sa và Bắc Hải (trong đó đặc
biệt là đội Hoàng Sa) càng ngày càng được tập hợp phong phú hơn, đa dạng
hơn. Chúng ta không chỉ biết về các đội Hoàng Sa Bắc Hải trong chủ
trương thành lập và chỉ đạo hoạt động của các chúa Nguyễn, của vương
triều Tây Sơn và các vua nhà Nguyễn, mà còn biết khá cụ thể các chủ
trương ấy đã được chính quyền và nhân dân các địa phương tự giác chấp
hành và thực hiện một cách đầy đủ và hết sức nghiêm chỉnh.
Đây không chỉ dừng lại
ở những văn bản chính thức của Nhà nước và những hoạt động phong phú đa
dạng ở các địa phương, mà còn được tập hợp trong những ghi chép của các
học giả, các nhà chức trách Việt Nam, các thương nhân và giáo sĩ phương
Tây, thậm chí đến cả nhà sư Trung Quốc đương đại, những người đã thông
qua quan sát trực tiếp hay khảo cứu công phu từ những văn bản gốc về
hoạt động của các đội Hoàng Sa, Bắc Hải mà ghi chép lại một cách khách
quan, trung thực.
Tư liệu cho biết các
Nhà nước Việt Nam đã thực thi chủ quyền của mình ở Hoàng Sa và Trường Sa
dưới các hình thức và biện pháp khác nhau như vãng thám kiểm tra kiểm
soát, khai thác các hoá vật và hải sản, tổ chức thu thuế và cứu hộ tàu
bị nạn, khảo sát, đo vẽ bản đồ, dựng miếu thờ, lập bia chủ quyền, dựng
bài gỗ lưu dấu để ghi nhớ, trồng cây để cho người qua lại dễ nhận biết…
Lực lượng ra làm nhiệm vụ ở Hoàng Sa, Trường Sa không chỉ có các đội
Hoàng Sa, Bắc Hải, các đội Thuỷ quân, biền binh, vệ giám thành mà cả
binh đinh, dân phu.
Mỗi chuyến đi ra Hoàng
Sa Trường Sa đều phải có quyết định của Nhà nước dưới hình thức “tờ sai
để thi hành công vụ” và nhiều khi chính nhà vua trực tiếp chỉ đạo việc
quyết định cho thuyền ra khơi hay tạm dừng lại. Sau khi kết thúc công
việc họ phải chạy thuyền thẳng về Kinh đô để báo cáo tình hình, khai nộp
hoá vật, hải vật.
Nhà vua thông qua Bộ
Công để kiểm tra, đánh giá và tuỳ mức độ đóng góp hay vi phạm mà luận
công hay định tội, thưởng phạt công minh. Những người hoàn thành nhiệm
vụ đều được Nhà nước cấp bằng xác nhận. Công việc ở Hoàng Sa và Trường
Sa là vô cùng gian nan nguy hiểm, nhiều trường hợp có đi mà không có về.
Thậm chí có khi người ta phải làm lễ truy điệu sống, làm đám tang
trước để an ủi người đi. Ý thức được đầy đủ nghĩa vụ và trách nhiệm với
quê hương đất nước, nhiều người thản nhiên đi vào cái chết, tự giác coi
đó là lẽ sống của chính mình. Trang lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở
Hoàng Sa và Trường Sa được viết bằng máu, được đánh đổi bằng cả cuộc đời
của lớp lớp những con người như thế.
Bản đồ trong sách
giáo khoa
dành cho trẻ em Việt Nam thế kỷ 19 có vẽ quần đảo Hoàng Sa.
dành cho trẻ em Việt Nam thế kỷ 19 có vẽ quần đảo Hoàng Sa.
Trước khi lên ngôi hoàng đế 1802, Nguyễn Ánh đã được anh em Dayot giúp đo đạc hải trình ở Biển Đông trong đó có vùng quần đảo Trường Sa hay Hoàng Sa nói chung.
Tháng giêng, năm Ất
Hợi (1815), Phạm Quang Anh, thuộc đội Hoàng Sa được lệnh ra đảo Hoàng Sa
xem xét đo đạc thủy trình. Phạm Quang Ảnh hiện được thờ tại từ đường
tộc họ Phạm (Quang) tại thôn Đông, xã Lý Vĩnh, xưa là phường hay hộ An
Vĩnh tại huyện đảo Lý Sơn (Cù Lao Ré).
Theo Đại Nam Thực Lục
Chính Biên, đệ nhất kỷ, quyển 52, từ năm 1816 vua Gia Long đã bắt đầu
cho thủy binh đi công tác Hoàng Sa cùng với đội dân binh Hoàng Sa ở
Quảng Ngãi đi ra Hoàng Sa xem xét và đo đạc thủy trình.
Dân phu cùng đi chính
là những dân phu giỏi hải trình đi Hoàng Sa. Sở dĩ vua Gia Long bắt đầu
cho thuỷ binh đi Hoàng Sa vì có các sĩ quan người Phương Tây trong thời
chiến tranh với Tây Sơn rất quan tâm đến vấn đề quản lý Biển Đông.
Những người Pháp cộng
tác với vua Gia Long, Minh Mạng như Chaigneau, giám mục Taberd đã viết
rất rõ về những hành động của vua Gia Long như Chaigneau đã viết trong
hồi ký "Le mémoire sur la Cochichine” "Chỉ đến năm 1816, đương kim hoàng
đế đã chiếm hữu quần đảo ấy” hay giám mục Taberd viết: "Chính là vào
năm 1816 mà Ngài (vua Gia long) đã long trọng treo tại đó lá cờ của xứ
Đàng Trong. Gutzlaff năm 1849 đã cho biết chính quyền Việt Nam thời Gia
Long đã thiết lập một trại quân nhỏ để thu thuế và bảo trợ người đánh cá
Việt Nam”.
Chính hoạt động lần
đầu tiên của thủy quân này đã đánh dấu mốc thời gian rất quan trọng về
việc tái xác lập và thực thi chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng
Sa, nên đã khiến cho những người Phương Tây như Chaigneau hay sau này là
Taberd khẳng định vua Gia Long đã chính thức xác lập chủ quyền của mình
như đã nói trên. Thực ra sự kiện năm 1816 chỉ đánh mốc là Hoàng Đế Gia
Long sử dụng thủy quân thay vì chỉ có đội Hoàng Sa xem xét, đo đạc thủy
trình , khai thác hải vật như trước.
Sang thời Nhà Nguyễn,
nhất là từ thời Minh Mạng, thủy quân hàng năm liên tục đã thành lệ đều
đặn ra Hoàng Sa, Trường Sa đi vãng thám, đo đạc thủy trình, cắm cột mốc,
dựng bia chủ quyền, và các hoạt động khác trên quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa…
Thời gian đi vãng thám
đo đạc ở Hoàng Sa nói chung, Trường Sa nói riêng thì bắt đầu triều
Nguyễn theo lệ khởi đi vào mùa Xuân, (kể từ kinh thành Huế đến Quảng
Ngãi), song cũng tùy năm sớm trễ khác nhau. Từ kinh thành Huế, thuỷ quân
tới Quảng Ngãi nghỉ ngơi và chuẩn bị cũng mất một thời gian đáng kể.
Như năm Minh Mạng 19 (1838) lúc đầu ấn định khởi hành hạ tuần tháng 3,
nhưng vì gió Đông nổi lên liên tục kèm theo mưa lớn, tới hạ tuần tháng 4
vẫn chưa khởi hành được . Lúc đầu kế hoạch tính đo đạc giáp vòng Hoàng
Sa từ hạ tuần tháng 3 đến hạ tuần tháng 6 là hoàn tất công việc. Sau dù
có đi trễ, thời gian hoàn tất tháng 6 vẫn không thay đổi.
Nhiệm vụ đo đạc ở
Hoàng Sa nói chung, Trường Sa nói riêng được qui định cũng rất rõ ràng
có ghi trong Đại Nam Thực Lục Chính Biên đệ nhị kỷ quyển 165 cũng như
Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ , quyển 221 như sau:
"Không cứ đảo nào, cửa
bể nào thuyền chạy đến, sẽ đo nơi ấy chiều dài, chiều ngang, bề cao, bề
rộng, chu vi bao nhiêu, rà bên bờ nước bể nông hay sâu. Có cát ngầm, đá
mỏm hay không, ở tình thế hiểm trở hay bình thường, xem đo tỏ tường vẽ
thành đồ bản, chiếu khi khởi hành, do cửa bể nào ra bể, trông phương
hướng nào mà lái đến nơi ấy, cứ theo đường thủy đã đi khấu tính ước được
bao nhiêu dặm đường? lại ở chốn ấy trông vào bờ bể đối thẳng là tỉnh
hạt nào? và phương hướng nào? Ước lượng cách bờ bao nhiêu dặm đường? Ghi
nói minh bạch trong hoạ đồ để về trình lên. Lại từ năm nay trở về sau,
mỗi khi đến hạ tuần tháng giêng, chiếu theo lệ ấy mà làm”.
Cũng chính vua Minh Mạng ra chỉ dụ nói rõ việc làm cụ thể của từng chuyến đi. Tỷ như năm Minh Mạng thứ 17 (1836), Bộ Công tâu trình lên vua về chuyến vãng thám Hoàng Sa của thủy quân, chính đội trưởng Phạm Hữu Nhật, vua Minh Mạng phê sửa (châu cải) : "Báo gấp cho Quảng Ngãi thực thụ ngay, giao cho tên ấy (Phạm Hữu Nhật) nhận biên” và rồi vua Minh Mạng lại phê (châu phê): "Thuyền nào đi đến đâu, cắm mốc tới đó để lưu dấu”.
Đại Nam Nhất Thống
Chí, quyển 6 ghi chép rằng trước năm Minh Mạng thứ 16, nhà vua sai quân
lính ra dựng bia đá làm dấu đã thấy có nơi phía Tây Nam đảo có ngôi cổ
miếu, không biết kiến thiết vào thời đại nào và có bia khắc bốn chữ "Vạn
Lý Ba Bình”. Như thế trước thời Minh Mạng đã có việc khắc bia, dựng
miếu chùa rồi.
Đến năm Minh Mạng thứ
14 (1833), vua Minh Mạng đã chỉ thị cho Bộ Công sang năm Minh Mạng thứ
15 (1834) phái người ra dựng bia chủ quyền . Đại Nam Thực Lục Chính Biên
đệ nhị kỷ, quyển 165 cũng đã chép rất rõ từ năm Minh Mạng thứ 17
(1836), Bộ công tâu vua cứ hằng năm cử người ra Hoàng Sa ngoài việc đo
đạc thủy trình, vẽ bản đồ và còn cắm cột mốc, dựng bia.
Các vị vua chúa Việt
Nam, nhất là thời vua Minh Mạng rất quan tâm đến việc dựng chùa miếu và
trồng cây tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Năm Minh Mạng thứ 16
(1835), vua đã chuẩn y lời tâu của Bộ Công cho tỉnh Quảng Ngãi cất miếu
Hoàng Sa một gian theo thể chế nhà đá. Việc dựng miếu này theo Đại Nam
Thực Lục Chính Biên đệ nhị kỷ, quyển 154, đã cho biết rõ năm Minh Mạng
thứ 15 (1834) đã không thực hiện việc xây dựng miếu như dự kiến mà đến
mãi đầu tháng 6 mùa hạ, năm Minh Mạng thứ 16 (1835), vua Minh Mạng đã cử
cai đội thủy quân là Phạm Văn Nguyên đem lính và giám thành cùng phu
thuyền hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định chuyên chở vật liệu đến dựng miếu
cách toà miếu cổ 7 trượng. Bên trái miếu, phía trước miếu xây bình
phong. Mười ngày làm xong việc chớ không như các đoàn khác có nhiệm vụ
lâu dài hơn.
Thường ba mặt miếu
Hoàng Sa bên trái, bên phải và đằng sau đều trồng các loại cây. Theo
Việt Sử Cương Giám Khảo Lược của Nguyễn Thông, thì các quân nhân đến đảo
thường đem những hạt quả thủy nam mà rải ở trong và ngoài miếu, mong
cho mọc cây để tìm dấu mà nhận. Như thế cây trồng ở Hoàng Sa chủ yếu
trồng bằng cách gieo hạt, quả chứ không trồng theo kiểu trồng loại cây
con. Đó cũng hợp lý vì mang cây con ra biển đi trên thuyền nhỏ như thế
cũng khó khăn, khó bảo dưỡng được cây sống để mà trồng. Thời gian hoạt
động hàng năm của thủy quân vào cuối mùa khô, kéo dài sang mùa mưa nhiều
tháng trời, rất thuận lợi cho việc gieo hạt trồng cây. Ý của vua Minh
Mạng sai trồng cây cũng cho rằng gần đây thuyền buôn thường bị hại, nên
trồng cây cũng cốt làm dấu dễ nhận ra đảo mà tránh thuyền bị tai nạn đâm
vào đảo.
Trong suốt thời chúa
Nguyễn, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một, luôn được quản lý hành
chánh bởi Thừa Tuyên Quảng Nam dưới danh nghĩa Nhà Lê hay Quảng Nghĩa
hay Ngãi lúc là phủ, khi là trấn trong thực tế tự trị của Xứ Đàng Trong,
tùy theo thời kỳ lịch sử. Bởi từ khi Nguyễn Hoàng trở lại trấn thủ
Thuận Quảng (năm 1600) cho tới khi chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765)
xưng vương năm 1744, trên danh nghĩa chúa Nguyễn vẫn là quan trấn thủ
Thừa tuyên Quảng Nam của Đại Việt, do vua Lê trị vì.
Như thế suốt hơn hai
thế kỷ, từ đầu thế kỷ XVII thời các chúa Nguyễn đến nửa đầu thế kỷ XIX
thời Nhà Nguyễn, đội dân binh Hoàng Sa kiêm quản đội Bắc Hải đã làm
nhiệm vụ khai thác biển, quản lý biển đảo Biển Đông.
Từ năm 1816 thuỷ quân
được giao nhiệm vụ xác lập và thực thi chủ quyền theo phương cách Phương
Tây, đúng theo pháp lý quốc tế thời đó.
Thời nào cũng vậy,
Việt Nam luôn tuân thủ pháp lý quốc tế về xác lập và thực thi chủ quyền
về biển đảo và có đầy đủ chứng cứ lịch sử từ chính sử chép cụ thể đến
các văn bản nhà nước như Châu bản của Triều đình nhà Nguyễn cũng như các
văn bản chính quyền địa phương như tờ lệnh, tờ tư, tờ bằng cấp như mới
phát hiện ở huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.
Chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo ấy
là không có gì để tranh cãi.
KẾT LUẬN
Cùng với lịch sử tổng
quan, những ghi chép bền bỉ liên tục trong khoảng hai ngàn năm về tình
hình diên cách địa lý trong nước, về các nước xung quanh là một ưu điểm
nổi bật của Chính sử Trung Hoa. Diện mạo văn hoá và hoàn cảnh địa -
chính trị không chỉ riêng Trung Quốc mà cả một khu vực rộng lớn trong
quá khứ được biết đến, thông qua những ghi chép của các sử gia và sử
quan Trung Hoa. Kho tư liệu này cần được hiểu một cách đúng đắn theo
tinh thần của những người làm sử, thể lệ chung được áp dụng xuyên suốt
từ Hán Thư cho đến Minh Sử cho thấy mục đích và ý nghĩa các ghi chép đều
có sự quy ước khá rõ. Thể lệ chính sử phân định phần Địa Lý chí là để
chép về đất đai thuộc cương vực của đế chế, phần Truyện Ngoại quốc là để
chép về các nước/ nơi bên ngoài có sự quan hệ ngoại giao hoặc thương
mại với đế chế. Việc phân định trong ngoài, phụ thuộc hay không phụ
thuộc để liệt vào Địa Lý chí có thể thấy rõ qua Đường Thư và Tống Sử
trong cách ghi nhận về Giao Châu / An Nam. Sau khi Ngô Quyền ở Giao Châu
dựng nhà nước độc lập tự chủ (938), Tống Sử đã chép về Giao Chỉ vào
phần truyện Ngoại quốc. Trong phần Địa Lý chí, nếu có chép về các nước/
nơi bên ngoài do có mối liên hệ nào đó thì nêu rõ mục đích ở Lời dẫn
hoặc Lời bạt, như trường hợp Tân Đường Thư trích lục di cảo của Giả Trầm
về các con đường giao thông từ nội địa Trung Quốc đi các nơi. Cách nhìn
về đại dương phía nam của các sử gia xuyên suốt các triều đại cho thấy
họ chỉ quan niệm về nó như là một vùng biển bên ngoài sự cai quản của
các đế chế, là những hải đạo chung trong quan hệ quốc tế.
Trong các bộ chính sử
Trung Hoa, có bộ chép phần Địa Lý chí giản lược, có bộ chép khá chi
tiết, dung lượng không đều nhưng có sự mạch lạc về mặt địa lý hành chính
các triều đại, vì vậy chúng được xem là một hệ thống lịch sử địa lý
hành chánh hoàn bị bậc nhất trên thế giới. Chính sử của Trung Quốc từ Sử
ký Tư Mã Thiên, Hán Thư, Hậu Hán Thư cho đến Minh Sử và kể cả Thanh Sử
không hề có ghi chép nào để chứng minh Trung Quốc đã từng thực hiện chủ
quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Tây Sa (mà họ gọi là Tây
Sa và Nam Sa). Có thể nói lời văn và câu chữ trong suốt sử ký của Trung
Quốc qua các thời đại hoàn toàn trái với những gì mà nhà cầm quyền
Trung Quốc và giới học giả Trung Quốc vẽ ra theo mộng tưởng của mình.
Chủ quyền của Việt Nam
ở Hoàng Sa và Trường Sa là một trong những trang đẹp nhất, bi hùng nhất
của lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam
ta, mà bất cứ người Việt Nam chân chính nào cũng cần phải biết trân
trọng và gìn giữ, không chỉ cho hôm nay, mà còn cho muôn đời sau.
Coppy từ rất nhiều nguồn khác nhau
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét