Thứ Hai, 11 tháng 3, 2013

02 quàn đảo Hoàng Sa và trường Sa là của Việt Nam




 

          Bà con ai chưa đọc thì hãy đọc ngay, đây là một thông tin cực kì quan trọng: “Bản đồ Trung Quốc 1904 không có Hoàng Sa, Trường Sa” (Tại đây). Bản đồ “Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ” (Địa dư toàn đồ tới các tỉnh của TQ được thực hiện dưới thời nhà Thanh) xuất bản năm 1904 ghi rõ cực nam TQ là đảo Hải Nam, không hề bao gồm Hoàng Sa, Trường Sa.


          Qua việc này mình đề nghị bà con ra sức phát tán, tuyên truyền cái bản đồ này cho dân trong nước, đặc biệt dân TQ.  Báo lao động đã có một đề xuất rất hay: Vụ bản đồ Trung Quốc 1904 không có Hoàng Sa,Trường Sa: Phải cho dân Trung Quốc cùng biết (Tại đây) Vậy những ai biết tiếng Tàu hãy gia nhập thế giới mạng của Tàu để tuyên truyền cái bản đồ này.
          Ngoài ra hãy phóng to bản đồ này lên các pano dựng ở các khách sạn, chỗ vui chơi, nơi đông người qua lại, trước cửa đại sứ quán TQ, nơi có người Tàu cư trú. Hãy in bản đồ này ở bìa 3, bìa 4 các sách giáo khoa từ lớp 1 đến đại học và tất cả các cuốn sách của các nhà xuất bản. Trang nhất các tờ báo, các website báo chí lề phải hãy luôn để một góc in bản đồ này.
          Vì Biển Đông, vì chủ quyền của Tổ quốc, bà con hãy khẩn trương hành động !
Dòng chữ Hán này đọc từ phải sang có nghĩa: Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ



           Tiến sĩ Mai Hồng chỉ vào tấm toàn đồ Trung Quốc, dừng lại ở cực nam Trung Quốc là đảo Hải Nam. Không hề có Tây Sa và Nam Sa (tức Hoàng Sa và Trường Sa) trong tấm bản đồ quý và chính thống này.



 
          Hoàng SaTrường Sa là hai quần đảo ở ngoài khơi Việt Nam: quần đảo Hoàng Sa chỗ gần nhất cách đảo Ré, một đảo ven bờ của Việt Nam, khoảng 120 hải lý; cách Đà Nẵng khoảng 120 hải lý về phía Đông; quần đảo Trường Sa chỗ gần nhất cách Vịnh Cam Ranh khoảng 250 hải lý về phía Đông.
           Nhận thức của các nhà hàng hải thời xưa về Hoàng Sa và Trường Sa lúc đầu mơ hồ; họ chỉ biết có một khu vực rộng lớn rất nguy hiểm cho tàu thuyền vì có những bãi đá ngầm. Ngày xưa người Việt Nam gọi là Bãi Cát Vàng, Hoàng Sa, Vạn lý Hoàng Sa, Đại Trường Sa hoặc Vạn lý Trường Sa như các
sách và bản đồ cổ của Việt Nam đã chứng tỏ. Hầu như tất cả các bản đồ của các nhà hàng hải phương Tây từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII đều vẽ chung quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa làm một dưới cái tên Pracel, Parcel hay Paracels.
           Về sau, với những tiến bộ của khoa học và hàng hải, người ta đã phân biệt có hai quần đảo: quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Mãi cho đến năm 1787 – 1788, cách đây hai trăm năm, đoàn khảo sát Kergariou-Locmaria mới xác định được rõ ràng và chính xác vị trí của quần đảo Hoàng Sa (Paracel) như hiện nay, từ đó phân biệt quần đảo này với quần đảo Trường Sa ở phía Nam.
           Các bản đồ trên nói chung đều xác định vị trí khu vực Pracel (tức là cả Hoàng Sa và Trường Sa) là ở giữa Biển Đông, phía đông Việt Nam, bên ngoài những đảo ven bờ của Việt Nam.
           Hai quần đảo mà các bản đồ hàng hải quốc tế ngày nay ghi là ParacelsSpratley hoặcSpratly chính là quần đảoHoàng Sa và quần đảoTrường Sa của Việt Nam.

Trung Quốc đã chà đạp luật pháp quốc tế
          Điều cần nhớ là khi cả Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên đã tham gia, phê chuẩn UNCLOS 1982, thì theo đúng luật quốc tế (theo cả Hiệp ước về điều ước quốc tế năm 1969 và UNCLOS 1982), tất cả các thành viên phải có nghĩa vụ thực hiện các quy định của UNCLOS 1982. Trong UNCLOS 1982 (Điều 279) cũng đã quy định các quốc gia thành viên giải quyết mọi tranh chấp xảy ra giữa họ về việc giải thích hay áp dụng công ước bằng các phương pháp hòa bình theo đúng quy định tại Hiến chương Liên Hiệp Quốc.
          Tại vùng thềm lục địa của mình, Việt Nam hoàn toàn có quyền thực hiện việc thăm dò, khai thác, không phải là vùng đang tranh chấp. Nhưng các hành động mà Trung Quốc sử dụng với tàu Bình Minh 02 đã vi phạm Điều 279 của UNCLOS 1982, Điều 33 của Hiến chương Liên Hiệp Quốc.
          Hành vi này của tàu hải giám Trung Quốc cũng vi phạm tới DOC 2002 mà Trung Quốc cùng ASEAN ký kết năm 2002. Theo đó các bên phải tự kiềm chế, không tiến hành các biện pháp làm phức tạp tình hình, không sử dụng hay đe dọa sử dụng vũ lực, tôn trọng năm nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình giữa các quốc gia…

Vị trí các tàu hải giám Trung Quốc
vi phạm chủ quyền vùng biển của Việt Nam và cắt cáp của tàu Bình Minh 02.
Đường gạch đỏ đứt khúc là ranh giới vùng đặc quyền kinh tế thuộc Việt Nam


          Chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là vấn đề thiêng liêng của mỗi dân tộc, trong đó, lãnh thổ và biên giới quốc gia là hai yếu tố gắn với nhau. Pháp luật quốc tế hiện đại và tập quán quốc tế lâu đời đều thừa nhận tính bất khả xâm phạm của lãnh thổ và biên giới quốc gia.
          Tuy nhiên, việc xác lập chủ quyền lãnh thổ trên đất liền hay trên các vùng biển, đảo đều phải hội đủ các yếu tố theo luật pháp quốc tế của từng thời điểm lịch sử. Phương thức chiếm hữu và thụ đắc lãnh thổ vì thế cũng thay đổi theo thời gian.

Bản đồ Việt Nam do Đỗ Bá - Công Đạo vẽ vào thế kỷ XVII.
Lời chú giải trên bản đồ khu vực phủ Quảng Ngãi ghi rõ
"Giữa biển có một dải cát dài, gọi là Bãi Cát Vàng”...


          Sau Chiến tranh thế giới thứ 2, Liên Hiệp Quốc được thành lập tiếp theo Hội Quốc Liên. Từ các cuộc chiến tranh xâm lược, Hiến chương Liên Hiệp Quốc đưa ra nguyên tắc (điều 2 khoản 14) có giá trị như một nguyên tắc pháp lý áp dụng cho tất cả các quốc gia. Nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực trên đã được phát triển và tăng cường trong Nghị quyết 2625 năm 1970: "Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một cuộc chiếm đóng quân sự do sử dụng vũ lực trái với các quy định của Hiến chương. Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một sự chiếm hữu của một quốc gia khác sau khi dùng đe dọa hay sử dụng vũ lực. Bất kỳ sự thụ đắc lãnh thổ nào đạt được bằng đe dọa hay sử dụng vũ lực sẽ không được thừa nhận là hợp pháp”. Nghị quyết trên cũng qui định: "Các quốc gia có bổn phận không đe dọa hay sử dụng vũ lực để vi phạm các biên giới quốc tế hiện có của một quốc gia khác hay như biện pháp giải quyết các tranh chấp quốc tế, kể cả các tranh chấp về lãnh thổ và các vấn đề liên quan đến các biên giới của các quốc gia.”.
          Năm 1982, Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển ("United Nations Convention on Law of Sea” - viết tắt là UNCLOS) công bố ngày 10-2-1982 tại Montego Bay ở Jamaica đã được 159 quốc gia ký nhận. Sau khi có đủ 60 quốc gia phê chuẩn, kể từ ngày 16-11-1994 UNCLOS hay LOS Convention trở thành luật quốc tế đối với các quốc gia phê chuẩn và được thi hành, đã xác định về chủ quyền trên biển của mỗi quốc gia.
          Đối chiếu với trường hợp hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, từ đầu thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XIX, theo tập quán pháp lý phương Tây lúc bấy giờ, sự xác lập chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo này là một sự thật thể hiện bằng các hành động cụ thể về sự quản lý, chỉ đạo của các Nhà nước Việt Nam đương thời một cách nhất quán, liên tục, hoà bình phù hợp với cơ sở pháp lý quốc tế đương thời. Sau đó, chủ quyền của Việt Nam tiếp tục được khẳng định dựa trên các cơ sở pháp lý quốc tế có giá trị phổ biến là Tuyên bố của Viện Pháp luật Quốc tế Lausanne năm 1888, Hiến chương Liên Hiệp Quốc và Công ước về Luật Biển 1982 mà các thành viên ký kết (trong đó có cả những nước đang vi phạm chủ quyền của Việt Nam ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa) đều phải tôn trọng.


          Nhiều tư liệu phương Tây xa xưa còn lưu lại đến nay cho thấy, chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam đã được xác định từ thế kỷ XV đến XIX trên những bản đồ
          Nhiều tư liệu cổ phương Tây còn lưu lại đến nay cho thấy các nhà hàng hải Bồ Đào Nha đã có những mô tả về quần đảo Hoàng Sa từ thế kỷ thứ XIV. Nhiều nhật ký hải trình của các nhà thám hiểm Bồ Đào Nha thời đó đã nói về một dải đá ngầm Pulo Pracela (các bãi ngầm san hô) rất nguy hiểm, trải dài cả vùng Hoàng Sa và Trường Sa ngày nay, tương tự với những hiểu biết của những người đi biển Việt Nam cùng thời. Các cuộc khảo sát Biển Đông của các nhà hàng hải phương Tây sau đó, nhất là của người Hà Lan và Pháp, ngày càng xác định rõ Pracela hay Paracels (Hoàng Sa) là một quần đảo thuộc về nước An Nam (cách người phương Tây thời trước gọi Việt Nam ).
          Bản đồ bán đảo Đông Dương của anh em nhà hàng hải Hà Lan Van-Langren (1595) ghi nhận ngoài khơi Việt Nam có một vùng quần đảo với nhiều bãi cát nông chạy dài xuống hướng tây nam gọi tên là Paracels cùng với rất nhiều chi tiết địa hình của miền Trung Việt Nam ngày nay. Chẳng hạn như đối diện với quần đảo Paracels trên đất liền có bờ biển ghi là Costa da Pracels (bờ Pracels) ở ngoài biển còn có Pulo Canton (Cù Lao Ré) thuộc địa phận Quảng Ngãi.
          Riêng Alexandre de Rhodes 1650, Công ty Đông Ấn La Haye năm 1658 và Taberd năm 1838 đã vẽ riêng bản đồ Việt Nam.

Bản đồ do nhà xuất bản Covens and Mortier tại Amsterdam vào năm 1760

có ghi chú quần đảo Paracel bên cạnh bờ biển xứ Đàng Trong.


          Trong số hàng trăm bản đồ do Phương Tây thực hiện, hầu hết đều ghi rõ đất nước Việt Nam với các hải đảo Hoàng Sa và Trường Sa, được gọi tên chung là Paracels hay Pracel. Bờ biển Prasel là ở Trung Bộ Việt Nam, chứ không hề ghi ở Nam Trung Hoa hay Phi Luật Tân, Indonesia hoặc Mã Lai. Như vậy, thật hiển nhiên, khắp thế giới đều công nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.
           Thư tịch cổ Việt Nam cũng ghi nhận người Bồ Đào Nha và Hà Lan đã từng nhiều lần tiếp xúc với các chúa Nguyễn xứ Đàng Trong để buôn bán. Nhiều thuyền buôn của phương Tây gặp nạn ở Hoàng Sa đều cập vào bờ biển Việt Nam để xin giúp đỡ và cũng nhiều lần họ được các chúa Nguyễn cử người ra cứu hộ, cấp cho tiền bạc, lương thực và thuyền để trở về nguyên quán.
          Chẳng hạn sau vụ đắm tàu Grootenbroeck của Hà Lan năm 1634 trong vùng đảo Hoàng Sa, viên thuyền trưởng đã tìm đến Hội An và Thuận Hoá để cầu cứu các chúa Nguyễn. Như vậy, từ rất lâu đời (muộn nhất vào thế kỷ XV) các nhà hàng hải phương Tây đã mặc nhiên xác định vùng quần đảo Hoàng Sa trên Biển Đông thuộc quyền quản lý của các chúa Nguyễn xứ Đàng Trong.
          Bước sang thế kỷ XVII-XVIII, tàu thuyền của người phương Tây đi qua Biển Đông ngày càng tấp nập. Người Pháp thông qua sự cộng tác với Nguyễn Ánh về quân sự đã bắt đầu quan tâm tới Biển Đông nhiều hơn và kế thừa những hiểu biết của các nhà hàng hải Bồ Đào Nha, Hà Lan... Từ đó, người phương Tây nhận thức rất rõ chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Năm 1701, nhật ký hải trình tàu Amphitrite xác nhận một thực tế hiển nhiên rằng "Paracels là một quần đảo thuộc về Vương quốc An Nam. Đó là một bãi đá ngầm thật khủng khiếp có đến hàng trăm dặm, rất nhiều lần đã xảy ra các nạn đắm tàu ở đó”.

Đương thời Lê Quý Đôn
đã viết về Hoàng Sa và Trường Sa
 

          Năm Cảnh Hưng thứ 36 (1775), Lê Quý Đôn được chúa Trịnh ở Đàng Ngoài cử vào Phú Xuân để lo sắp đặt kế hoạch bình định hai trấn Thuận Hoá và Quảng Nam của chúa Nguyễn mới được quân chúa Trịnh đánh chiếm từ năm 1774. Trong khi được cử giữ chức vụ Hiệp trấn tham tán quân cơ ở Thuận Hóa, ngoài việc phải lo tổ chức lại chính quyền, ổn định cuộc sống của dân, năm 1776, Lê Quý Đôn đã tranh thủ thời gian "đi dạo núi sông, hỏi di tích, xem xét lệ cũ, tìm kiếm nhân tài, tùy bút chép ra thành quyển gọi tên là Phủ biên tạp lục”.

          Sách "Phủ biên tạp lục” được soạn xong ngay trong năm đó - chỉ trong 6 tháng Lê Quý Đôn làm quan ở Thuận Hóa - nhưng chưa được khắc in, bản thảo chép tay của tác giả cũng không còn và các bản sao sớm nhất còn lại đến ngày nay đều là bản sao chép tay ở thế kỷ XIX. BienDong Net giới thiệu nội dung những ghi chép này của ông qua bài viết của Ngô Quang Chính trên báo quốc nội Đại Đoàn kết.
          "Phủ biên tạp lục”, sau khi được giám định, phiên dịch và hiệu đính rất công phu bởi Viện Sử học, năm 1977 được Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản thành sách và được đưa vào làm tập I của bộ "Lê Quý Đôn toàn tập”.


          "Phủ biên tạp lục” gồm 6 quyển, được đánh giá là tài liệu cổ mô tả kỹ càng nhất về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Hai đoạn chép về các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đều nằm trong Quyển II (Hình thế núi sông, thành lũy, trị sở, đường sá, bến đò, nhà trạm hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam) trang 116 và trang 119-120. Chung quy lại, hai đoạn này viết về ba vấn đề chính là: Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; đặc điểm, hoạt động của đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải; khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.


1. Về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa :
          Trường Sa ở phía ngoài Cù Lao Ré (tức đảo Lý Sơn; xưa thuộc xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi; nay thuộc huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi), gần xứ Bắc Hải, cách đảo Lý Sơn khoảng 3 ngày đêm đi thuyền câu, có nhiều sản vật tự nhiên và hàng hóa của các con tàu bị đắm: "Phủ Quảng Ngãi, ở ngoài cửa biển xã An Vĩnh huyện Bình Sơn có núi gọi là Cù Lao Ré, rộng hơn 30 dặm...; phía ngoài nữa lại có đảo Đại Trường Sa, trước kia có nhiều hải vật và hóa vật của tàu, lập đội Hoàng Sa để lấy, 3 ngày 3 đêm thì mới đến, là chỗ gần xứ Bắc Hải”.
          Hoàng Sa thì ở ngoài biển về phía đông bắc xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi. Về địa hình thì "có nhiều cù lao, các núi linh tinh hơn 130 ngọn, cách nhau bằng biển, từ hòn này sang hòn kia hoặc đi một ngày hoặc vài canh thì đến. Trên núi có chỗ có suối nước ngọt. Trong đảo có bãi cát vàng, ước hơn 30 dặm, bằng phẳng, rộng lớn, nước trong suốt đáy”. Về sinh vật thì có yến sào, chim, ốc vân, ốc xà cừ, ốc hương, đồi mồi, hải ba, hải sâm... Trên đảo còn có hàng hóa của các con tàu bị đắm - "hóa vật của tàu, như là gươm, ngựa, hoa bạc, tiền bạc, hòn bạc, đồ đồng, khối thiếc, khối chì, súng, ngà voi, đồ sứ, đồ chiên”.


2. Đặc điểm, hoạt động
của đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải :
          Đ khai thác các nguồn lợi kinh tế và bảo vệ chủ quyền trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, các chúa Nguyễn và sau này là các vua Tây Sơn, vua Nguyễn đã cho lập các đội Hoàng Sa và Bắc Hải.
          Nhiệm vụ của đội Hoàng Sa và Bắc Hải là tìm nhặt hàng hóa của các con tàu bị đắm dạt vào các đảo (gươm, súng, vàng bạc, đồ đồng, thiếc, chì...) và đánh bắt hải sản (ốc, hải sâm, vỏ đồi mồi, vỏ hải ba...).
          Về mặt tổ chức, phiên chế đội ngũ, đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải là một tổ chức dân binh vừa mang tính dân sự vừa mang tính quân sự, vừa mang tính chất tư nhân vừa mang tính nhà nước, vừa có chức năng kinh tế, vừa có chức năng quản lý biển đảo. Thành viên đội Hoàng Sa là những dân địa phương được tổ chức theo hình thức quân sự. Đứng đầu mỗi đội là một cai đội (thường là vị quan lớn như cai đội Thuyên Đức Hầu - một người được phong tước "hầu”), những thành viên trong đội được gọi là "quân nhân”: "năm Kiền Long thứ 18 (1753) có 10 tên quân nhân xã An Vĩnh đội Cát Vàng huyện Chương Nghĩa phủ Quảng Ngãi nước An Nam”. Cai đội Hoàng Sa kiêm quản đội Bắc Hải. Những quân nhân Hoàng Sa, Bắc Hải không được trả lương hàng tháng như chính binh (tức lính chuyên nghiệp), chỉ được "miễn cho tiền sưu cùng các tiền tuần đò”. Ngoài việc được miễn sưu thuế, về mặt quyền lợi, họ còn được hưởng phần dư - phần còn lại ngoài số sản vật lượm được phải nộp cho Nhà nước theo quy định: "đến thành Phú Xuân để nộp, cân và định hạng xong, mới cho đem bán riêng các thứ ốc vân, hải ba, hải sâm”.
          Biên chế của đội Hoàng Sa: 70 suất, nguồn tuyển: người xã An Vĩnh trên đảo Cù Lao Ré; biên chế của đội Bắc Hải: "không định bao nhiêu suất”, nguồn tuyển: hoặc người thôn Tứ Chính ở Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương.
          Lịch hoạt động trong năm: tháng 2 lĩnh giấy sai đi, mất 3 ngày 3 đêm thì đến nơi, ở lại trên đảo 6 tháng, tháng 8 thì về, vào thành Phú Xuân để nộp, rồi lĩnh bằng trở về. Hoạt động của đội được chính quyền cho phép và giám sát chặt chẽ: khi đi lĩnh giấy, khi về lĩnh bằng.
          Địa bàn hoạt động: các cù lao, đảo trên Biển Đông. Vì địa bàn biển đảo quá rộng nên đội Bắc Hải được lập thêm để phụ trách vùng biển đảo phía Nam, từ Trường Sa đến Hà Tiên: xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên.
          Phương tiện và trang bị: đi bằng thuyền câu nhỏ (5 chiếc), mang đủ lương ăn 6 tháng, bắt thêm cá, chim để ăn. Thu hoạch thất thường: "Lượm được nhiều ít không nhất định, cũng có khi về người không”. Phần hải vật thường ổn định, còn hóa vật thì nhiều ít tùy năm. "Chẳng qua là lấy các thứ hải vật, còn vàng bạc của quý ít khi lấy được”. Với tư cách quan Hiệp trấn, Lê Quý Đôn đã trực tiếp tìm hiểu: "Tôi đã xem sổ của cai đội cũ là Thuyên Đức Hầu biên rằng: năm Nhâm Ngọ lượm được 30 hốt bạc; năm Giáp Thân thu hồi được 5100 cân thiếc; năm Ất Dậu được 126 hốt bạc; từ năm Kỷ Sửu đến năm Quý Tỵ, 5 năm ấy, mỗi năm chỉ được mấy tấm đồi mồi, hải ba. Cũng có năm được thiếc khối, bát sứ và hai khẩu súng đồng mà thôi”.


3. Việt Nam đã thực thi chủ quyền của mình
trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa :
          "Hoàng Sa chính gần phủ Liêm Châu, đảo Hải Nam, người đi thuyền có lúc gặp thuyền đánh cá Bắc quốc, hỏi nhau ở trong biển. Tôi đã từng thấy một đạo công văn của quan chính đường huyện Văn Xương Quỳnh Châu gửi cho Thuận Hóa nói rằng: năm Kiền Long thứ 18 (1753) có 10 tên quân nhân xã An Vĩnh đội Cát Liềm (Vàng?) huyện Chương Nghĩa, phủ Quảng Ngãi, nước An Nam ngày tháng 7 đến Vạn Lý Trường Sa tìm kiếm các thứ, có 8 tên lên bờ tìm kiếm, chỉ để 2 tên giữ thuyền, bị gió đứt dây thuyền, giạt vào Thanh Lan cảng, quan ở đấy xét thực, đưa trả về nguyên quán. Nguyễn Phúc Chu sai cai bạ Thuận Hóa là Thức Lượng Hầu làm thư trả lời”. Điều này chứng tỏ ngày xưa Việt Nam và Trung Quốc khá thân thiện, ngư dân thì gặp nhau, "hỏi nhau ở trong biển”, quan lại thì gửi công văn trao đổi qua lại. Và từ xưa chính quyền Trung Quốc đã biết đến hoạt động của các đội khai thác và thực thi chủ quyền biển đảo của Việt Nam, trong đó có đội Hoàng Sa - Cát Vàng, vẫn luôn tôn trọng quyền thực thi chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa. Chính quyền phong kiến Trung Quốc đã không hề có phản ứng nào về những hoạt động của đội Hoàng Sa mà còn giúp đỡ những người lính Hoàng Sa hồi hương "xét thực, đưa trả về nguyên quán”.


          Suốt trong ba thế kỷ từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XIX, một tổ chức "ngư binh” Việt Nam- đội Hoàng Sa đã hoạt động tại Biển Đông với chức năng quan trọng là khai thác các nguồn lợi kinh tế và bảo vệ chủ quyền trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
          Cụ thể, nhiệm vụ của đội Hoàng Sa là thu lượm hàng hóa của các con tàu bị đắm (gươm, súng, vàng bạc, đồ đồng, thiếc, chì...) và các hải sản quý (ốc, hải sâm, vỏ đồi mồi, vỏ hải ba...); kiêm quản, trông coi đội khác cùng làm nhiệm vụ song ở địa bàn khác (như đội Bắc Hải ở phía Nam), đồng thời kiểm soát, bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.
          Như thế, nhiệm vụ của đội Hoàng Sa rất nặng nề, không thuần túy về kinh tế, khai thác tài nguyên mà còn làm công tác xem xét, đo đạc thủy trình vùng quần đảo Hoàng Sa, du thám, trình báo về các bọn thổ phỉ ngoài biển. Đây chính là nội dung hoạt động thực thi quyền quản lý Biển Đông của chính quyền chúa Nguyễn và buổi đầu nhà Nguyễn thời ấy.
          Vì có chức năng đặc biệt quan trọng như vậy nên đội Hoàng Sa được đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của Bộ Công, thậm chí nhiều khi đích thân Nhà vua đã quyết định một số những công việc đặc biệt hệ trọng của đội.



          Người trực tiếp chỉ huy đội là một cai đội. Cai đội là vị quan lớn, thường được phong tước "hầu”, như: Thuyên Đức Hầu, đã được Lê Quý Đôn tra cứu sổ sách suốt từ 1702 (Nhâm Ngọ) đến 1713 (Quý Tỵ); Hội Đức Hầu, trong Chỉ thị của Thái phó Tổng lý Quân binh dân chư vụ Thượng tướng công, được lưu giữ tại nhà thờ họ Võ, phường An Vĩnh (nay là thôn Tây, xã An Vĩnh, huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi). Hoặc như Phú Nhuận Hầu, đã kiêm luôn "Khâm sai cai thủ” cửa biển Sa Kỳ, kiêm chức "Cai cơ thủ ngự”, kiêm quản đội Hoàng Sa, trong tờ trình ngày 1 tháng 10 năm Gia Long thứ 2 (1803) cũng được lưu giữ tại nhà thờ họ Võ.
          Sau đó, vì chính quyền nhà Nguyễn dần dần tìm ra các đảo san hô hết sức rộng ở Biển Đông, đội Hoàng Sa không thể bao quát hết được, các chúa Nguyễn đã cho thành lập các đội Bắc Hải, Quế Hương, Đại Mạo hải ba và Quế Hương hàm, cũng có chức năng và nhiệm vụ như đội Hoàng Sa. Song các chúa Nguyễn vẫn để đội Hoàng Sa kiêm quản, chịu trách nhiệm chung để có một đầu mối mà dễ dàng nắm tình hình ở Biển Đông.
          Địa bàn hoạt động chủ yếu của đội Hoàng Sa được quy gọn lại vùng biển và hải đảo ngang với khu vực Lý Sơn và ngược lên phía Bắc, trong đó vẫn lấy quần đảo Hoàng Sa là trung tâm. Đội Bắc Hải phụ trách vùng biển đảo phía Nam, từ Trường Sa đến Hà Tiên: xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên.
          Về mặt tổ chức, phiên chế đội ngũ, đội Hoàng Sa và các đội khác là những tổ chức dân binh vừa mang tính dân sự vừa mang tính quân sự, vừa mang tính chất tư nhân vừa mang tính Nhà nước, vừa có chức năng kinh tế, vừa có chức năng quản lý biển đảo.
          Họ xuất phát là ngư dân, sau đó tự nguyện gia nhập đội ngũ làm nhiệm vụ cho Nhà nước theo kiểu lính nghĩa vụ nên được gọi là những "quân nhân” hay "ngư binh”.
          Trong Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn có chép: "...năm Kiền Long thứ 18 (1753) có 10 tên quân nhân xã An Vĩnh, đội Cát Vàng, huyện Chương Nghĩa, phủ Quảng Ngãi nước An Nam...”. Vì thế, nhìn chung những người lính Hoàng Sa đều có ý thức kỷ luật cao. Họ là một tổ chức chặt chẽ và hoạt động có hiệu quả, liên tục.
          Do hoàn cảnh địa lý tự nhiên, từ vị trí, địa thế cũng như nhân văn của vùng cửa biển Sa Kỳ - Cù Lao Ré khiến dân cư ở đây giỏi đi biển, đánh bắt cá không chỉ gần bờ mà còn xa bờ, thời nay gọi là "viễn dương”, "vươn khơi”.
          Họ thường đi tìm những hải sản quý như hải sâm, ốc tai tượng... ngay ở vùng kế cận Cù Lao Ré. Hiển nhiên những nơi như Hoàng Sa đầy ắp những hải sản tất sẽ có sức hút những cư dân trên đi tới. Đó cũng là lý do đầu tiên khiến Cù Lao Ré - cửa biển Sa Kỳ là cái nôi ra đời của đội Hoàng Sa và các đội khác.
          Những "quân nhân” Hoàng Sa, Bắc Hải... không được trả lương hàng tháng như "chính binh” (tức lính "chuyên nghiệp”), chỉ được "miễn cho tiền sưu cùng các tiền tuần đò”.
Ngoài việc được miễn sưu thuế, về mặt quyền lợi, họ còn được hưởng phần dư - phần còn lại ngoài số sản vật lượm được phải nộp cho Nhà nước theo quy định: "đến thành Phú Xuân để nộp, cân và định hạng xong, mới cho đem bán riêng các thứ ốc vân, hải ba, hải sâm” (Phủ biên tạp lục). Người hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thì được khen thưởng xứng đáng, còn người không hoàn thành nhiệm vụ, "ngạo mạn càn bậy không đến, lại gian dối lấy bớt các vật quý, hoặc sinh sự với dân làm muối, làm cá đều phải trị tội”.
          Tóm lại, đội Hoàng Sa và các đội "ngư binh” khác, với chức năng chủ yếu là bảo vệ và khai thác các vùng quần đảo xa giữa Biển Đông, cũng có lúc thiên về công việc khai thác, cũng có lúc thiên về công việc bảo vệ, nhưng dù là thiên về chức năng nào thì cũng không thể thay thế được các đội Thuỷ quân.
          Vì thế trong lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa, có những lúc hoạt động của đội Hoàng Sa rất nổi bật, nhưng cũng có những lúc bị lu mờ, thậm chí có khi bị ghép chung vào công việc của đội Thuỷ quân. Lịch sử ghi lại rằng có triều đình đã từng quyết định bãi bỏ đội Hoàng Sa và chuyển công việc của đội Hoàng Sa cho đội Thuỷ quân, nhưng ngay sau đó họ lại phải tính chuyện tái lập trở lại. Hay sau khi giành được chính quyền, các vương triều đã tái lập các đội Hoàng Sa, Bắc Hải đã tạm ngừng hoạt động do binh lửa chiến tranh. Bởi vì, các đội "ngư binh” này được tổ chức gọn nhẹ, đơn giản hơn Thủy quân. Chưa chắc Thủy quân đã thông thạo biển đảo bằng những ngư dân phường An Vĩnh. Họ lại phải tự lo phương tiện (như tiểu điếu thuyền, thuyền câu), lương thực và các vật dụng cần thiết cho những chuyến đi. Lấy kinh phí của tư nhân nhưng đi làm nhiệm vụ của Nhà nước. Vì vậy, chiếc thuyền đi làm nhiệm vụ được "cắm biển hiệu thủy quân”.
          Ngoài việc tự nhận lấy trách nhiệm "luôn du thám ngoài biển, nếu thấy bọn ác phỉ trên tàu ngoài biển thì trình báo, những việc đó coi là bổn phận giữ gìn ngoài biển”, họ còn làm các công việc phục vụ cho chức năng quản lý nhà nước trên các quần đảo của Tổ quốc như đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ về Hoàng Sa và Trường Sa, cắm cột mốc, dựng bia chủ quyền, tổ chức thu thuế và cứu hộ tàu bị nạn, xây dựng chùa miếu và trồng cây để cho người qua lại dễ nhận biết...
          Họ "sẵn lòng ứng chiến với kẻ xâm phạm” "nếu như có truyền báo xảy chinh chiến”. Họ thực sự là những "hùng binh” trên biển.
          Sau này, từ thời vua Minh Mạng trở đi, lực lượng Thủy quân làm nhiệm vụ thực thi chủ quyền được phiên chế như một "lực lượng đặc nhiệm” gồm kinh phái, tỉnh phái và dân binh địa phương mà chủ yếu là dân binh đội Hoàng Sa. Lúc này, chức năng bảo vệ biển đảo đã chuyển hẳn cho các đội Thủy quân, nhưng những đội Hoàng Sa và Bắc Hải vẫn tiếp tục đi ra Hoàng Sa, Trường Sa thu lượm hoá vật, hải sản dâng nộp cho triều đình Huế - nghĩa là vẫn thực hiện một chức năng của đội Hoàng Sa, Bắc Hải xưa.
          Vì tính chất tổ chức "bán quân sự”, "bán tư nhân”, "bán kinh tế” như vậy nên các đội Hoàng Sa, Bắc Hải... được coi là một tổ chức độc đáo của các Nhà nước Việt Nam thế kỷ XVII, XVIII, XIX trong chủ trương khẳng định chủ quyền của mình ở Hoàng Sa và Trường Sa.
          Bộ sách đồ sộ và có nhiều thông tin hơn cả về Hoàng Sa, Trường Sa là bộ Đại Nam thực lục Chính biên. Trong hai thập kỷ đầu thế kỷ XIX, vua Gia Long đã nhiều lần quan tâm đến việc kiểm tra, kiểm soát Hoàng Sa được sách ghi lại như: “sai mộ dân ngoại tịch lập làm đôi Hoàng Sa” năm 1803; “sai đội Hoàng Sa là bọn Phạm Quang Ảnh ra đảo Hoàng Sa thăm dò đường biển” năm 1815 và năm 1816; nhận địa đồ đảo Hoàng Sa từ thuyền Mã Cao năm 1817…
          Nhưng hoạt động thực thi chủ quyền ở Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam đã phát triển lên trình độ cao hơn dưới thời trị vì của vua Minh Mệnh.
          Năm 1833, ông lập kế hoạch phái người ra Hoàng Sa dựng miếu, lập bia và trồng cây. Các năm 1834, 1835, ông cho người ra dựng miếu, đền thờ thần, lập bia đá và xây bình phong ở khu vực toà miếu cổ. Năm 1836, ông quyết định hàng năm phái người ra Hoàng Sa xem xét, đo vẽ tỉ mỉ và lập thành bản đồ các đảo, hòn, bãi cát.
          Khi ra đo đạc ngoài Hoàng Sa đội thuỷ quân Phạm Hữu Nhật đã mang theo 10 bài gỗ, trên mặt khắc dòng chữ “Minh Mệnh thứ 17, năm Bính Thân, thuỷ quân chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật, vâng mệnh đi Hoàng Sa trông nom đo đạc đến đây lưu dấu để ghi nhớ”. Liên tục từ năm 1834 đến năm 1839 vua Minh Mệnh thưởng công cho những người đi vẽ bản đồ ở ngoài đảo Hoàng Sa về. Đối với những người không may gặp gió bão ngoài biển mà bảo toàn tính mạng trở về cũng có thưởng; còn những người không hoàn thành nhiệm vụ tuần phòng ngoài biển thì bị phạt nặng…
          Bên cạnh Đại Nam thực lục Chính biên, dưới thời Minh Mệnh, Quốc sử quán còn được giao nhiệm vụ biên soan bộ Minh Mệnh chính yếu, trong đó quyển 25 có chép nhiều vụ tầu đắm ở ngoài Biển Đông, trôi dạt vào bờ đã được cứu giúp chu đáo. Chẳng hạn vào năm 1836 thuyền buôn nước Anh gặp gió bão ở Hoàng Sa, tạm ghé vào hải phận tỉnh Bình Định, đã được nhà vua “sai quan tỉnh tuyên cáo chỉ dụ của triều đình cho họ nghe, đồng thời mở cuộc phát chẩn…”.
          Điều này không chỉ nói lên lòng nhân đạo cao cả của người Việt, mà quan trọng hơn chính là nghĩa vụ, trách nhiệm cứu hộ trên biển của Nhà nước và cư dân Việt Nam với tư cách là chủ nhân của vùng biển đảo  này.
          Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ là bộ sách do triều thần nhà Nguyễn vâng mệnh vua ghi chép những việc làm của triều đình thuộc lục bộ về điển chương, pháp luật…. được hoàn thành trong khoảng thời gian từ năm 1843 đến năm 1851. Trong sách có đoạn chép về việc lập miếu, dựng bia, trồng cây ở Hoàng Sa và khảo sát, đo vẽ bản đồ toàn bộ khu vực, về cơ bản không khác so với Đại Nam thực lục Chính biên.
          Quốc triều chính biên toát yếu là bộ sử trích các phần quan yếu của Đại Nam thực lục Chính biên, trong đó quyển III có các đoạn chép về việc xây miếu và dựng bia, đo vẽ bản đồ và việc cứu hộ tầu Anh bị mắc cạn ghé vào bãi biển Bình Định.
          Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú là bộ bách khoa thư lớn nhất của thế kỷ XIX, được hoàn thành vào năm 1821 có phần Dư địa chí chép về bãi Hoàng Sa và đội Hoàng Sa cũng giống như Phủ biên tạp lục.
          Việt sử cương giám khảo lược là bộ sách địa lý lịch sử của Nguyễn Thông chép về Vạn Lý Trường Sa ngoài những đặc điểm địa lý, tự nhiên và dấu tích của người Việt Nam trên đảo Hoàng Sa, ông còn nói khá cụ thể về đội Hoàng Sa như việc tuyển đinh tráng các xã An Vĩnh, An Hải, thời gian tồn tại của đội Hoàng Sa…
          Đại Nam nhất thống chí do Quốc sử quán thời Tự Đức biên soạn từ năm 1865 đến năm 1882. Hoàng Sa, Trường Sa được giới thiệu trong quyển 8 (tỉnh Quảng Ngãi) phỏng theo Phủ biên tạp lục và những tư liệu tập hợp được trong Đại Nam thực lục. Riêng đoạn cuối sách cung cấp thêm: “Năm Minh Mệnh thứ 16, sai thuyền công chở gạch đá đến đây xây đền, dựng bia đá ở phía tả đền để ghi dấu và tra hột các thứ cây ở ba mặt tả hữu và sau. Binh phu đắp nền miếu đào được lá đồng và gang sắt có đến hơn 2000 cân”.
          Nhiều công trình chuyên khảo hay những ghi chép khách quan của các quan chức, học giả đương thời khác cũng cung cấp thêm những thông tin có giá trị.
Sử học bị khảo của Đặng Xuân Bảng cũng chép “đảo Hoàng Sa (ở giữa bể, thuộc huyện Bình Sơn (Quảng Ngãi), dài rộng vài nghìn dặm).”
          Bài thơ Vọng kiến Vạn Lý Trường Sa của Lý Văn Phức có một đoạn chú dài viết khá cụ thể về khu vực biển đảo mà chính tác giả suýt mắc nạn.
          Theo nguồn tài liệu này thì ngay từ đầu thế kỷ XIX, nhà Nguyễn đã từng thuê các thuỷ thủ dày dạn kinh nghiệm và các phương tiện kỹ thuật hiện đại của phương Tây trực tiếp dẫn dắt một số con thuyền vượt Biển Đông. Điều này cũng góp phần giải thích bản đồ khu vực biển đảo của Việt Nam tuy vẫn giữ phong cách vẽ truyền thống, nhưng đã sớm cập nhật những thông tin mới và độ chính xác cao của bản đồ hằng hải các nước phương Tây đương đại.
          Cũng thuộc nguồn tài liệu thư tịch và có giá trị cao để khẳng định quá trình các Nhà nước Việt Nam dưới thời Nguyễn thực thi chủ quyền của mình ở Hoàng Sa và Trường Sa là các Châu bản triều Nguyễn. Qua nghiên cứu khảo sát 144 tập của hai triều Minh Mệnh và Thiệu Trị, chúng tôi tìm ra được một số tư liệu là bằng chứng rõ ràng về quá trình thực thi chủ quyền của các nhà nước phong kiến Việt Nam ở hai quần đảo này như bản dụ của vua Minh Mệnh (13/7/1835 và 13/7/1837) về các đoàn đi công vụ ở Hoàng Sa; các bản tấu của Thủ ngự Đà Nẵng về việc thuyền của Pháp mắc cạn ở Hoàng Sa (21/6/1830); các bản tấu của Bộ Công về việc phạt những người đi Hoàng Sa không lập xong bản đồ (13/7/1837), về việc phái đoàn công vụ lên đường ra Hoàng Sa nhưng do gặp gió lớn mà không xuất phát được… Đặc biệt có tờ tấu của Bộ Công (21/6 /1838) cho biết đoàn khảo sát Hoàng sa trở về báo cáo đã đến được 25 đảo (trong 3 sở), còn 1 sở hơi xa lại gặp gió lớn nên chưa tới được…
          Dưới thời Nguyễn bên cạnh việc triển khai đo vẽ thực tế ở Hoàng Sa, Trường Sa là việc nhà nước cho hoàn thành nhiều bộ bản đồ quan trọng, trong đó tiêu biểu nhất là Đại Nam nhất thống toàn đồ hoàn thành trong khoảng từ năm 1838 đến năm 1840 dưới thời vua Minh Mệnh. Quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa trong bản đồ được vẽ chung thành một cụm hình lưỡi dao kéo dài gồm khoảng ba chục đảo lớn, trong đó Hoàng Sa ở phía cực bắc được nối liền với Vạn Lý Trường Sa (tức Trường Sa) ở phía nam trong một chuỗi các đảo chưa có dấu hiệu phân tách. Thật ra vào năm 1830 cũng đã xuất hiện tấm Bản đồ vẽ theo phong cách này, nhưng đang còn ở dạng bản thảo và sau này thời Thiệu Trị có Đại Nam toàn đồ, dưới thời Tự Đức có Đại Nam nhất thống toàn đồ (Nam Bắc kỳ hội đồ) là sự tiếp nối của phong cách vẽ bản đồ hiện đại.
Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được thể hiện trong
Đại Nam nhất thống toàn đồ năm 1838


          Xuất hiện trước và sau Đại Nam nhất thống toàn đồ có khá nhiều bản đồ khác vẽ Hoàng Sa, Trường Sa vẫn theo phương pháp tryền thống như Nam Việt bản đồ, Thiên tải nhàn đàm, An Nam dư địa chí, Khải đồng thuyết ước, Nam Việt địa dư trích lục, Nam Việt địa đồ cựu lục… Các bản đồ này tuy không cung cấp thông tin mới, nhưng lại xác nhận một thực tế là suốt trong thế kỷ XIX, Hoàng Sa, Trường Sa đã được đưa vào sách giáo khoa dạy cho học sinh hay dùng làm sách phổ biến kiến thức để mọi người dân Việt Nam ghi nhớ phần lãnh thổ không thể tách rời của nước Việt Nam thống nhất.
          Ngay từ khi mới bắt đầu thiết lập Vương triều, Nguyễn Ánh tiếp tục công cuộc thám sát và phòng thủ biển nhằm củng cố chính quyền. Một người Pháp trở thành một đại thần trong triều là Jean Baptiste Chaigneau (1769-1825) trong khi làm quan ở Huế xác nhận: “Xứ Đàng Trong mà Quốc vương ngày nay mang danh hiệu Hoàng đế bao gồm xứ Nam Hà theo đúng nghĩa của nó, xứ Bắc Hà, một phần vương quốc của Cao Miên, một vài đảo có người ở không xa bờ biển và quần đảo Hoàng Sa, gồm có những đảo nhỏ, bãi đá ngầm và mỏm đá không người ở. Chỉ đến năm 1816 thì nhà vua hiện nay mới chiếm hữu được quần đảo này”.
          Các tác giả phương Tây lúc đó, trong các tác phẩm của mình, cũng đều công nhận chủ quyền pháp lý của các vua nhà Nguyễn đối với quần đảo Hoàng Sa.
          Giám mục Jean Louis Taberd người Pháp, người nhiều năm truyền giáo ở Đàng Trong cho rằng: “Quần đảo Pracel… Vào năm 1816, nhà vua đã tới long trọng cắm lá cờ của mình và đã chính thức giữ chủ quyền ở các bãi đá này, mà chắc là sẽ không có một ai sẽ tìm cách tranh giành với ông ta”. Ông còn cho xuất bản cuốn Từ điển La Tinh An Nam và kèm theo tấm bản đồ An Nam đại quốc hoạ đồ, trong đó ở khoảng vĩ tuyến 170 bắc và kinh tuyến 1100 đông, bản đồ có vẽ một cụm các đảo nhỏ với dòng chữ ghi chú: Paracel Seu Cát Vàng.
          Tiến sĩ Gutzlaff, hội viên của Hội địa lý Hoàng gia Luân Đôn, biên soạn cuốn sách Geography of the Cochinchinese Empire cho biết: “Chính phủ An Nam nhận thấy lợi ích có thể đem lại được nếu như dựng lên một ngạch quan thuế và đã duy trì những thuyền đánh thuế và một đội quân nhỏ đồn trú ở tại chỗ để thu thuế đối với tất cả những ai đến đó, và để bảo vệ những dân chài của nước họ”.
          Năm 1850, M. A Dubois de Jancigny, cựu đại uý, phái viên của Chính phủ Pháp ở Trung Quốc và Đông Dương đã viết sách nói rõ: “Chúng tôi chỉ muốn nhận xét rằng đã từ 34 năm nay, (tức là từ 1816 đến 1850), quần đảo Paracels (mà những người An Nam gọi là Cát Vàng), thật là một chốn mê cung chằng chịt những hòn đảo nhỏ, đá ngầm và bãi cát thật sự đã làm những người đi biển kinh hãi và chỉ có thể kể đến trong số những địa điểm hoang vu cằn cỗi nhất của địa cầu, quần đảo do đã bị các người xứ Đàng Trong chiếm giữ.
          Chúng tôi không rõ họ đã có đặt một cơ sở nào không (có thể với mục đích là bảo vệ công việc đánh cá), nhưng chắc chắn rằng nhà vua Gia Long đã chủ tâm đính thêm đoá hoa độc nhất vô nhị đó vào chiếc vương miện của ông, bởi vì ông đã xét thấy cần thiết phải đi tới việc đích thân chiếm giữ lấy quần đảo đó, và chính vì thế mà năm 1816 ông đã long trọng kéo lá cờ xứ Đàng Trong lên mảnh đất đó”.
          Trong những thập kỷ cuối thế kỷ XIX, khi Pháp tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, triều đình Tự Đức không còn đủ sức chống lại đã lần lượt để mất chủ quyền về tay Thực dân Pháp, trong đó có cả chủ quyền các vùng biển đảo. Tuy nhiên vùng đất máu thịt của tổ tông vẫn là niềm thôi thúc các thế hệ con dân đất Việt đấu tranh đến cùng để giành lại chủ quyền bằng mọi giá.
          Tư liệu về nguồn gốc, chức năng và hoạt động của các đội Hoàng Sa và Bắc Hải (trong đó đặc biệt là đội Hoàng Sa) càng ngày càng được tập hợp phong phú hơn, đa dạng hơn. Chúng ta không chỉ biết về các đội Hoàng Sa Bắc Hải trong chủ trương thành lập và chỉ đạo hoạt động của các chúa Nguyễn, của vương triều Tây Sơn và các vua nhà Nguyễn, mà còn biết khá cụ thể các chủ trương ấy đã được chính quyền và nhân dân các địa phương tự giác chấp hành và thực hiện một cách đầy đủ và hết sức nghiêm chỉnh.
          Đây không chỉ dừng lại ở những văn bản chính thức của Nhà nước và những hoạt động phong phú đa dạng ở các địa phương, mà còn được tập hợp trong những ghi chép của các học giả, các nhà chức trách Việt Nam, các thương nhân và giáo sĩ phương Tây, thậm chí đến cả nhà sư Trung Quốc đương đại, những người đã thông qua quan sát trực tiếp hay khảo cứu công phu từ những văn bản gốc về hoạt động của các đội Hoàng Sa, Bắc Hải mà ghi chép lại một cách khách quan, trung thực.
          Tư liệu cho biết các Nhà nước Việt Nam đã thực thi chủ quyền của mình ở Hoàng Sa và Trường Sa dưới các hình thức và biện pháp khác nhau như vãng thám kiểm tra kiểm soát, khai thác các hoá vật và hải sản, tổ chức thu thuế và cứu hộ tàu bị nạn, khảo sát, đo vẽ bản đồ, dựng miếu thờ, lập bia chủ quyền, dựng bài gỗ lưu dấu để ghi nhớ, trồng cây để cho người qua lại dễ nhận biết… Lực lượng ra làm nhiệm vụ ở Hoàng Sa, Trường Sa không chỉ có các đội Hoàng Sa, Bắc Hải, các đội Thuỷ quân, biền binh, vệ giám thành mà cả binh đinh, dân phu.
          Mỗi chuyến đi ra Hoàng Sa Trường Sa đều phải có quyết định của Nhà nước dưới hình thức “tờ sai để thi hành công vụ” và nhiều khi chính nhà vua trực tiếp chỉ đạo việc quyết định cho thuyền ra khơi hay tạm dừng lại. Sau khi kết thúc công việc họ phải chạy thuyền thẳng về Kinh đô để báo cáo tình hình, khai nộp hoá vật, hải vật.
          Nhà vua thông qua Bộ Công để kiểm tra, đánh giá và tuỳ mức độ đóng góp hay vi phạm mà luận công hay định tội, thưởng phạt công minh. Những người hoàn thành nhiệm vụ đều được Nhà nước cấp bằng xác nhận. Công việc ở Hoàng Sa và Trường Sa là vô cùng gian nan nguy hiểm, nhiều trường hợp có đi mà không có về. Thậm chí có khi  người ta phải làm lễ truy điệu sống, làm đám tang trước để an ủi người đi. Ý thức được đầy đủ nghĩa vụ và trách nhiệm với quê hương đất nước, nhiều người thản nhiên đi vào cái chết, tự giác coi đó là lẽ sống của chính mình. Trang lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa được viết bằng máu, được đánh đổi bằng cả cuộc đời của lớp lớp những con người như thế.

Bản đồ trong sách giáo khoa
dành cho trẻ em Việt Nam thế kỷ 19 có vẽ quần đảo Hoàng Sa.


          Trước khi lên ngôi hoàng đế 1802, Nguyễn Ánh đã được anh em Dayot giúp đo đạc hải trình ở Biển Đông trong đó có vùng quần đảo Trường Sa hay Hoàng Sa nói chung.
          Tháng giêng, năm Ất Hợi (1815), Phạm Quang Anh, thuộc đội Hoàng Sa được lệnh ra đảo Hoàng Sa xem xét đo đạc thủy trình. Phạm Quang Ảnh hiện được thờ tại từ đường tộc họ Phạm (Quang) tại thôn Đông, xã Lý Vĩnh, xưa là phường hay hộ An Vĩnh tại huyện đảo Lý Sơn (Cù Lao Ré).
          Theo Đại Nam Thực Lục Chính Biên, đệ nhất kỷ, quyển 52, từ năm 1816 vua Gia Long đã bắt đầu cho thủy binh đi công tác Hoàng Sa cùng với đội dân binh Hoàng Sa ở Quảng Ngãi đi ra Hoàng Sa xem xét và đo đạc thủy trình.
          Dân phu cùng đi chính là những dân phu giỏi hải trình đi Hoàng Sa. Sở dĩ vua Gia Long bắt đầu cho thuỷ binh đi Hoàng Sa vì có các sĩ quan người Phương Tây trong thời chiến tranh với Tây Sơn rất quan tâm đến vấn đề quản lý Biển Đông.
          Những người Pháp cộng tác với vua Gia Long, Minh Mạng như Chaigneau, giám mục Taberd đã viết rất rõ về những hành động của vua Gia Long như Chaigneau đã viết trong hồi ký "Le mémoire sur la Cochichine” "Chỉ đến năm 1816, đương kim hoàng đế đã chiếm hữu quần đảo ấy” hay giám mục Taberd viết: "Chính là vào năm 1816 mà Ngài (vua Gia long) đã long trọng treo tại đó lá cờ của xứ Đàng Trong. Gutzlaff năm 1849 đã cho biết chính quyền Việt Nam thời Gia Long đã thiết lập một trại quân nhỏ để thu thuế và bảo trợ người đánh cá Việt Nam”.
          Chính hoạt động lần đầu tiên của thủy quân này đã đánh dấu mốc thời gian rất quan trọng về việc tái xác lập và thực thi chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa, nên đã khiến cho những người Phương Tây như Chaigneau hay sau này là Taberd khẳng định vua Gia Long đã chính thức xác lập chủ quyền của mình như đã nói trên. Thực ra sự kiện năm 1816 chỉ đánh mốc là Hoàng Đế Gia Long sử dụng thủy quân thay vì chỉ có đội Hoàng Sa xem xét, đo đạc thủy trình , khai thác hải vật như trước.
          Sang thời Nhà Nguyễn, nhất là từ thời Minh Mạng, thủy quân hàng năm liên tục đã thành lệ đều đặn ra Hoàng Sa, Trường Sa đi vãng thám, đo đạc thủy trình, cắm cột mốc, dựng bia chủ quyền, và các hoạt động khác trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa…
          Thời gian đi vãng thám đo đạc ở Hoàng Sa nói chung, Trường Sa nói riêng thì bắt đầu triều Nguyễn theo lệ khởi đi vào mùa Xuân, (kể từ kinh thành Huế đến Quảng Ngãi), song cũng tùy năm sớm trễ khác nhau. Từ kinh thành Huế, thuỷ quân tới Quảng Ngãi nghỉ ngơi và chuẩn bị cũng mất một thời gian đáng kể. Như năm Minh Mạng 19 (1838) lúc đầu ấn định khởi hành hạ tuần tháng 3, nhưng vì gió Đông nổi lên liên tục kèm theo mưa lớn, tới hạ tuần tháng 4 vẫn chưa khởi hành được . Lúc đầu kế hoạch tính đo đạc giáp vòng Hoàng Sa từ hạ tuần tháng 3 đến hạ tuần tháng 6 là hoàn tất công việc. Sau dù có đi trễ, thời gian hoàn tất tháng 6 vẫn không thay đổi.
          Nhiệm vụ đo đạc ở Hoàng Sa nói chung, Trường Sa nói riêng được qui định cũng rất rõ ràng có ghi trong Đại Nam Thực Lục Chính Biên đệ nhị kỷ quyển 165 cũng như Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ , quyển 221 như sau:
          "Không cứ đảo nào, cửa bể nào thuyền chạy đến, sẽ đo nơi ấy chiều dài, chiều ngang, bề cao, bề rộng, chu vi bao nhiêu, rà bên bờ nước bể nông hay sâu. Có cát ngầm, đá mỏm hay không, ở tình thế hiểm trở hay bình thường, xem đo tỏ tường vẽ thành đồ bản, chiếu khi khởi hành, do cửa bể nào ra bể, trông phương hướng nào mà lái đến nơi ấy, cứ theo đường thủy đã đi khấu tính ước được bao nhiêu dặm đường? lại ở chốn ấy trông vào bờ bể đối thẳng là tỉnh hạt nào? và phương hướng nào? Ước lượng cách bờ bao nhiêu dặm đường? Ghi nói minh bạch trong hoạ đồ để về trình lên. Lại từ năm nay trở về sau, mỗi khi đến hạ tuần tháng giêng, chiếu theo lệ ấy mà làm”.

          Cũng chính vua Minh Mạng ra chỉ dụ nói rõ việc làm cụ thể của từng chuyến đi. Tỷ như năm Minh Mạng thứ 17 (1836), Bộ Công tâu trình lên vua về chuyến vãng thám Hoàng Sa của thủy quân, chính đội trưởng Phạm Hữu Nhật, vua Minh Mạng phê sửa (châu cải) : "Báo gấp cho Quảng Ngãi thực thụ ngay, giao cho tên ấy (Phạm Hữu Nhật) nhận biên” và rồi vua Minh Mạng lại phê (châu phê): "Thuyền nào đi đến đâu, cắm mốc tới đó để lưu dấu”.
          Đại Nam Nhất Thống Chí, quyển 6 ghi chép rằng trước năm Minh Mạng thứ 16, nhà vua sai quân lính ra dựng bia đá làm dấu đã thấy có nơi phía Tây Nam đảo có ngôi cổ miếu, không biết kiến thiết vào thời đại nào và có bia khắc bốn chữ "Vạn Lý Ba Bình”. Như thế trước thời Minh Mạng đã có việc khắc bia, dựng miếu chùa rồi.
          Đến năm Minh Mạng thứ 14 (1833), vua Minh Mạng đã chỉ thị cho Bộ Công sang năm Minh Mạng thứ 15 (1834) phái người ra dựng bia chủ quyền . Đại Nam Thực Lục Chính Biên đệ nhị kỷ, quyển 165 cũng đã chép rất rõ từ năm Minh Mạng thứ 17 (1836), Bộ công tâu vua cứ hằng năm cử người ra Hoàng Sa ngoài việc đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ và còn cắm cột mốc, dựng bia.
          Các vị vua chúa Việt Nam, nhất là thời vua Minh Mạng rất quan tâm đến việc dựng chùa miếu và trồng cây tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
          Năm Minh Mạng thứ 16 (1835), vua đã chuẩn y lời tâu của Bộ Công cho tỉnh Quảng Ngãi cất miếu Hoàng Sa một gian theo thể chế nhà đá. Việc dựng miếu này theo Đại Nam Thực Lục Chính Biên đệ nhị kỷ, quyển 154, đã cho biết rõ năm Minh Mạng thứ 15 (1834) đã không thực hiện việc xây dựng miếu như dự kiến mà đến mãi đầu tháng 6 mùa hạ, năm Minh Mạng thứ 16 (1835), vua Minh Mạng đã cử cai đội thủy quân là Phạm Văn Nguyên đem lính và giám thành cùng phu thuyền hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định chuyên chở vật liệu đến dựng miếu cách toà miếu cổ 7 trượng. Bên trái miếu, phía trước miếu xây bình phong. Mười ngày làm xong việc chớ không như các đoàn khác có nhiệm vụ lâu dài hơn.
          Thường ba mặt miếu Hoàng Sa bên trái, bên phải và đằng sau đều trồng các loại cây. Theo Việt Sử Cương Giám Khảo Lược của Nguyễn Thông, thì các quân nhân đến đảo thường đem những hạt quả thủy nam mà rải ở trong và ngoài miếu, mong cho mọc cây để tìm dấu mà nhận. Như thế cây trồng ở Hoàng Sa chủ yếu trồng bằng cách gieo hạt, quả chứ không trồng theo kiểu trồng loại cây con. Đó cũng hợp lý vì mang cây con ra biển đi trên thuyền nhỏ như thế cũng khó khăn, khó bảo dưỡng được cây sống để mà trồng. Thời gian hoạt động hàng năm của thủy quân vào cuối mùa khô, kéo dài sang mùa mưa nhiều tháng trời, rất thuận lợi cho việc gieo hạt trồng cây. Ý của vua Minh Mạng sai trồng cây cũng cho rằng gần đây thuyền buôn thường bị hại, nên trồng cây cũng cốt làm dấu dễ nhận ra đảo mà tránh thuyền bị tai nạn đâm vào đảo.
          Trong suốt thời chúa Nguyễn, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một, luôn được quản lý hành chánh bởi Thừa Tuyên Quảng Nam dưới danh nghĩa Nhà Lê hay Quảng Nghĩa hay Ngãi lúc là phủ, khi là trấn trong thực tế tự trị của Xứ Đàng Trong, tùy theo thời kỳ lịch sử. Bởi từ khi Nguyễn Hoàng trở lại trấn thủ Thuận Quảng (năm 1600) cho tới khi chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) xưng vương năm 1744, trên danh nghĩa chúa Nguyễn vẫn là quan trấn thủ Thừa tuyên Quảng Nam của Đại Việt, do vua Lê trị vì.
          Như thế suốt hơn hai thế kỷ, từ đầu thế kỷ XVII thời các chúa Nguyễn đến nửa đầu thế kỷ XIX thời Nhà Nguyễn, đội dân binh Hoàng Sa kiêm quản đội Bắc Hải đã làm nhiệm vụ khai thác biển, quản lý biển đảo Biển Đông.
          Từ năm 1816 thuỷ quân được giao nhiệm vụ xác lập và thực thi chủ quyền theo phương cách Phương Tây, đúng theo pháp lý quốc tế thời đó.
          Thời nào cũng vậy, Việt Nam luôn tuân thủ pháp lý quốc tế về xác lập và thực thi chủ quyền về biển đảo và có đầy đủ chứng cứ lịch sử từ chính sử chép cụ thể đến các văn bản nhà nước như Châu bản của Triều đình nhà Nguyễn cũng như các văn bản chính quyền địa phương như tờ lệnh, tờ tư, tờ bằng cấp như mới phát hiện ở huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.

Chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo ấy
là không có gì để tranh cãi.


KẾT LUẬN
          Cùng với lịch sử tổng quan, những ghi chép bền bỉ liên tục trong khoảng hai ngàn năm về tình hình diên cách địa lý trong nước, về các nước xung quanh là một ưu điểm nổi bật của Chính sử Trung Hoa. Diện mạo văn hoá và hoàn cảnh địa - chính trị không chỉ riêng Trung Quốc mà cả một khu vực rộng lớn trong quá khứ được biết đến, thông qua những ghi chép của các sử gia và sử quan Trung Hoa. Kho tư liệu này cần được hiểu một cách đúng đắn theo tinh thần của những người làm sử, thể lệ chung được áp dụng xuyên suốt từ Hán Thư cho đến Minh Sử cho thấy mục đích và ý nghĩa các ghi chép đều có sự quy ước khá rõ. Thể lệ chính sử phân định phần Địa Lý chí là để chép về đất đai thuộc cương vực của đế chế, phần Truyện Ngoại quốc là để chép về các nước/ nơi bên ngoài có sự quan hệ ngoại giao hoặc thương mại với đế chế. Việc phân định trong ngoài, phụ thuộc hay không phụ thuộc để liệt vào Địa Lý chí có thể thấy rõ qua Đường Thư và Tống Sử trong cách ghi nhận về Giao Châu / An Nam. Sau khi Ngô Quyền ở Giao Châu dựng nhà nước độc lập tự chủ (938), Tống Sử đã chép về Giao Chỉ vào phần truyện Ngoại quốc. Trong phần Địa Lý chí, nếu có chép về các nước/ nơi bên ngoài do có mối liên hệ nào đó thì nêu rõ mục đích ở Lời dẫn hoặc Lời bạt, như trường hợp Tân Đường Thư trích lục di cảo của Giả Trầm về các con đường giao thông từ nội địa Trung Quốc đi các nơi. Cách nhìn về đại dương phía nam của các sử gia xuyên suốt các triều đại cho thấy họ chỉ quan niệm về nó như là một vùng biển bên ngoài sự cai quản của các đế chế, là những hải đạo chung trong quan hệ quốc tế.
          Trong các bộ chính sử Trung Hoa, có bộ chép phần Địa Lý chí giản lược, có bộ chép khá chi tiết, dung lượng không đều nhưng có sự mạch lạc về mặt địa lý hành chính các triều đại, vì vậy chúng được xem là một hệ thống lịch sử địa lý hành chánh hoàn bị bậc nhất trên thế giới. Chính sử của Trung Quốc từ Sử ký Tư Mã Thiên, Hán Thư, Hậu Hán Thư cho đến Minh Sử và kể cả Thanh Sử không hề có ghi chép nào để chứng minh Trung Quốc đã từng thực hiện chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Tây Sa (mà họ gọi là Tây Sa và Nam Sa). Có thể nói lời văn và câu chữ trong suốt sử ký của Trung Quốc qua các thời đại hoàn toàn trái với những gì mà nhà cầm quyền Trung Quốc và giới học giả Trung Quốc vẽ ra theo mộng tưởng của mình.




          Chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa là một trong những trang đẹp nhất, bi hùng nhất của lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam ta, mà bất cứ người Việt Nam chân chính nào cũng cần phải biết trân trọng và gìn giữ, không chỉ cho hôm nay, mà còn cho muôn đời sau.




Coppy từ rất nhiều nguồn khác nhau

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

To Top Page Up Page Down To Bottom Auto Scroll Stop Scroll
Comments jQuery Recent Posts Ticker Widget